Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

7-9

Chương VII Địa Ngục
Sariputra: Trí tuệ hoàn hảo, thưa Ngài, có được là nhờ trí biết toàn giác. Trí tuệ hoàn hảo được xem như là toàn giác.
Phật: Đúng như vậy, Sariputra, như ông đã nói.
Sariputra: Kính trọng đối với Trí tuệ hoàn hảo thì tức là đánh bóng đi những tăm tối, tiết lộ ánh sáng, thưa Ngài. Con kính lễ đối với Trí tuệ hoàn hảo! Trí tuệ hoàn hảo rất xứng đáng được kính lễ. Trí tuệ hoàn hảo thì không vẩn đục, và vì vậy cả thế giới và cả thế giới hệ không thể làm vẩn đục. Dù có ở đâu, nhìn từ góc độ nào, sự thống nhất tuyệt đối, thì chúng sinh cũng xem Trí tuệ hoàn hảo như là kho tàng ánh sáng tự phát, xua tan đi những giới hạn, và vật thể ở tam thiên thế giới. Cung kính giữ gìn thì sẽ được dẫn ra khỏi bóng tối tạo ra bởi cấu bẩn và quan niệm sai lệch. Vì đây là đặc tính của Trí tuệ hoàn hảo, chúng ta tìm chỗ trú nơi đây. Sự tuân thủ vô tư (impartial abiding) chính là giá trị hoàn hảo nhất. Trong chúng ta, Trí tuệ hoàn hảo được diễn đạt để làm cứu cánh cho Bodhi. Nhận thức được điều này sẽ đem ánh sáng đến cho người mù. Tất cả chúng ta đều được thấm nhuần với Trí tuệ hoàn hảo nên mọi sự sợ hãi và đau khổ sẽ tan biến ngay khi Trí tuệ hoàn hảo được giảng. Kính trọng Trí tuệ hoàn hảo thì có được 5 mắt, và soi sáng con đường này cho mọi người. Chính Trí tuệ hoàn hảo là thị giác. Trí tuệ hoàn hảo phá tan âm u và bóng tối của ảo tưởng. Trí tuệ hoàn hảo không làm gì với tất cả các pháp (do nothing about all dharma). Trí tuệ hoàn hảo là con đường và người dẫn đường cho những ai đi sai đường. Trí tuệ hoàn hảo đồng nghĩa với toàn giác. Trí tuệ hoàn hảo không sản sinh ra pháp vì Trí tuệ hoàn hảo loại bỏ những phần cặn liên quan đến 2 sự bao gồm (both kinds of coverings), những thứ tạo ra bởi cấu bẩn và bất cứ những gì khác. Trí tuệ hoàn hảo không ngăn chặn pháp nào cả, tự thân cũng không bị dừng lạ, và bất sản sinh (unproduced)…đây chính là Trí tuệ hoàn hảo. Là mẹ của Bồ Tát, vì có tính không (vắng lặng) là đặc tính. Như là người hiến cúng châu báu cho Phật-Pháp, Trí tuệ hoàn hảo đem lại 10 lực cho Phật. Trí tuệ hoàn hảo không thể bị quật ngã. Trí tuệ hoàn hảo bảo vệ những người không có khả năng tự vệ bằng cách cho họ 4 địa của sự tự tin. Trí tuệ hoàn hảo là liều thuốc giải cho sinh tử. Trí tuệ hoàn hảo hé lộ sự biết rõ ràng thật tính của sự cá thể (own being) của các pháp, vì Trí tuệ hoàn hảo không đi trật xa khỏi nó. Trí tuệ hoàn hảo của Phật đã làm chuyển bánh xe Pháp
Trí tuệ hoàn hảo là hơn hẳn những sự hoàn hảo khác
Làm sao để Bồ Tát đứng vững trên Trí tuệ hoàn hảo, làm sao để kính lễ và hầu cận Trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Ở mọi khía cạnh, Trí tuệ hoàn hảo được xem như là thầy của tất cả
Sakra hỏi Sariputra: Từ đâu và vì sao ông lại hỏi như vậy?
Sariputra: Câu hỏi này khởi nguồn khi tôi nghe là Bồ Tát đi trên con đường Trí tuệ hoàn hảo và thiện xảo phương tiện thì chuyển hóa công đức tùy hỷ thiện căn thành toàn giác. Những người như vậy trụ ở nơi hơn cả những công đức như bố thí, đạo đức, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định của những Bồ Tát còn nhận định về cơ sở. Chính Trí tuệ hoàn hảo này dẫn đường cho 5 ba la mật đến tới hướng và ý định của con đường toàn giác. Kausika, cũng như hàng trăm hàng ngàn người mù thì nếu không có người dẫn đường thì không thể đến làng xóm, thành phố được. Cũng như vậy, Bố thí, đạo đức, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định một mình không thể gọi là hoàn hảo được. Bởi vì nếu không có Trí tuệ hoàn hảo thì chúng đều và mù cả, và nếu không có người dẫn đường thì không thể đi trên con đường toàn giác được, huống hồ là đến với toàn giác. Tuy vậy, Bố thí, đạo đức, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định đều được kiểm soát bởi Trí tuệ hoàn hảo, chỉ lúc này thì chúng mới được gọi là hoàn hảo, vì 5 ba la mật này có được thị giác để có thể giúp người này tiến đến con đường toàn giác, và đến với toàn giác.
Không có gì được thể hiện bởi Trí tuệ hoàn hảo (procured)
Sariputra hỏi Phật: Làm thế nào mà Bồ Tát thành tựu được Trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Bằng sự biết tinh khiết và nhìn nhận rằng không thể có sự thành tựu của 5 uẩn, đây gọi là thành tựu Trí tuệ hoàn hảo. Bằng cách này không có gì bị ảnh hưởng, và sự thành tựu của 5 uẩn được gọi là thành tựu Trí tuệ hoàn hảo
Sariputra: Vậy khi nào thì Trí tuệ hoàn hảo được thành tựu nhờ sự thành tựu như vậy? Pháp nào và sự thể nào được thể hiện?
Phật: Khi thành tựu như vậy thì Trí tuệ hoàn hảo không thể hiện ra pháp nào cả, và vì lý do này mà Trí tuệ hoàn hảo có tên là như vậy
Sakra: Thưa Ngài, vậy Trí tuệ hoàn hảo không sản sinh ra sự toàn giác?
Phật: Trí tuệ hoàn hảo không thể hiện ngay cả cái này, vì toàn giác được sinh ra từ, hay có sơ sở từ những suy nghĩ trí óc hay những hành động có ý thức
Sakra: Vậy Trí tuệ hoàn hảo sản sinh ra gì?
Phật: Chính vì Trí tuệ hoàn hảo không thể hiện, do nguyên nhân này và ở mức này (to this extent) thì Trí tuệ hoàn hảo thể hiện
Sakra: Thật tuyệt vời, thưa Ngài, khi thấy được Trí tuệ hoàn hảo có thể không sản sinh hay không ngăn trở các pháp tới mức nào. Chính là vì không sản sinh và không ngăn chặn tất cả các pháp mà Trí tuệ hoàn hảo được đặt ra (set up), tuy vậy, Trí tuệ hoàn hảo không thực sự có mặt
Subhuti: Nếu Bồ Tát nào nghĩ như vậy thì người này sẽ cách xa Trí tuệ hoàn hảo, vì cho rằng Trí tuệ hoàn hảo là vô dụng và không quan trọng, chính vì vậy người nayd không thực hành Trí tuệ hoàn hảo.
Phật: Điều này khá đúng, vì ở đây khi Trí tuệ hoàn hảo được thắp sáng, thì hình tượng không được thắp sáng, ngay cả ngũ uẩn cũng vậy, ngay cả các Thánh quả, cho đến quả vị Phật Đà.
Subhuti: Trí tuệ hoàn hảo thực là hoàn hảo, thưa Ngài!
Vì sao Trí tuệ hoàn hảo là tuyệt vời?
Phật: Hãy nói cho ta nghe, Subhuti, vì sao Trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo tuyệt vời?
Subhuti: Vì Trí tuệ hoàn hảo không khiến ngũ uẩn lớn lên hay nhỏ đi, không hội tụ cũng như không phân tán ngũ uẩn. Không làm toàn giác lớn lên hay nhỏ đi, không hội tụ cũng như không phân tán. Vì tất cả toàn giác đều không bị hội tụ hay phân tán. Khi Bồ tát suy nghĩ như vậy thì người này không đi trên Trí tuệ hoàn hảo, không cần phải nói tới người nghĩ rằng “Ta sẽ tự trang nghiêm bằng sự biết toàn giác, và sẽ giảng pháp cho mọi người, dẫn dắt mọi người đến Nirvana. Vì khi nắm bắt những người này thì đó chính là cơ sở, và khi người này nói “Ta sẽ dẫn dắt mọi người đến Nirvana”, đây không phải là kết quả của Trí tuệ hoàn hảo. Đây chính là cơ sở nắm bắt lớn của người này. Vì chính sự thiếu vắng cá thể riêng biệt của chúng sinh thì cần được biết là thuộc về tinh chất củaTrí tuệ hoàn hảo. Cần phải biết là Trí tuệ hoàn hảo thì không có cá thể riêng biệt của chính nó, cũng giống như mọi người đều không có cá thể riêng biệt của chính họ. Trí tuệ hoàn hảo thì không thể nghĩ bàn, vì mọi người tự tính cũng vậy; và tự tính của Trí tuệ hoàn hảo cũng không trải qua quá trình nào dẫn đến Bodhi…vì chúng sinh, tự nhiên cũng không trải qua những quá trình như vậy; cách mà Thế Tôn tiến đến sở hữu hoàn toàn của những năng lực thì cũng được hiểu là con đường mà mọi người tiến đến sở hữu hoàn toàn của những năng lực. Chính tính cách này làm cho Trí tuệ hoàn hảo là Trí tuệ hoàn hảo
Những lý do để tin tưởng vào Trí tuệ hoàn hảo
Sariputra: Bồ Tát tái sinh ở đây thì tin tưởng hoàn toàn vào Trí tuệ hoàn hảo mà không do dự tí nào, không kinh ngạc, không ngờ vực, những người này mất đi và chịu đựng nhiều trong thời gian dài để luyện tập. Những người này đi theo con đường giáo lý của Trí tuệ hoàn hảo, hiểu nghĩa, và chỉ dạy người khác bằng mọi cách để biểu lộ ý nghĩa hay biểu lộ giáo lý này
Phật: Đúng như vậy, Sariputra, Người này biết rằng những vị Bồ Tát này được tái sinh cũng như mất đi ở những thế giới khác, nơi mà họ tôn thờ và đặt câu hỏi đối với Phật. Những vị Bồ Tát mất đi ở những thế giới khác, nơi mà họ tôn thờ và đặt câu hỏi đối với Phật thì được tái sinh ở đây, và khi nghe được Trí tuệ hoàn hảo này thì nhận ra ngay rằng Trí tuệ hoàn hảo chính là vị thầy, và hoàn toàn tin tưởng rằng với những câu hỏi này, người này đang đứng trước mặt đối mặt với thầy…những người như vậy biết là họ thấy được thầy. Khi Trí tuệ hoàn hảo được giảng dạy thì người này lắng nghe kĩ lưỡng, tôn trọng ngay trước khi được nghe Trí tuệ hoàn hảo này, không cắt ngắc Trí tuệ hoàn hảo này…Những Bồ Tát như vậy được biết đến như những người đã luyện tập lâu dài, trên cả khoảng thời gian. Và cũng như vậy, người này tôn trọng nhiều vị Phật.
Subhuti: Có cách nào lắng nghe Trí tuệ hoàn hảo, phân biệt và xem xết, bình luận và ngẫm nghĩ về Trí tuệ hoàn hảo chăng? Có ai có thể giải thích hay học hỏi được rằng, vì có một số dấu hiệu, giá trị của Trí tuệ hoàn hảo, hay là đây là Trí tuệ hoàn hảo, và kia, kia là Trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Không, Subhuti. Trí tuệ hoàn hảo không thể được diễn giải, học hỏi, phân biệt và xem xết, bình luận và ngẫm nghĩ bằng bất cứ hay tất cả các uẩn, cũng không bằng phương tiện của tất cả hay bất cứ yếu tố nào, cũng không bằng bất cứ hay tất cả giác quan. Đây là kết quả của sự thật. Tất cả các pháp đều vắng biệt, hoàn toàn vắng biệt, không có cơ sở như được nói và biết đến. Nhưng Trí tuệ hoàn hảo cũng không phải được biết đến ngoài các uẩn, nguyên tố hay giác quan. Vì chính các uẩn, nguyên tố và giác quan đều vắng lặng, tách biệt và yên lặng. Chính vì vậy, Subhuti, như Trí tuệ hoàn hảo và các uẩn, các nguyên tố và giác quan thì không phải hơn 1, cũng không phải 1, cũng không phải bị chia cắt (divided). Chính vì kết quả của sự vắng lặng, riêng biệt và yên lặng, những sự vật này không thể được nắm bắt. Vì không có cơ sở, hay là sự nắm bắt của bất cứ và tất cả các uẩn, đây được gọi là Trí tuệ hoàn hảo. Bất cứ thứ gì, nơi đâu, khi nào, hay làm cách nào mà trí biết tiết lộ sự không có quan điểm, tên gọi, nhận thức, hay sự diễn đạt vốn có, lúc này thì ta nhắc đến Trí tuệ hoàn hảo. (Whatever, wherever, whenever, or however pure cognition reveals no perception, appellation, conception, contrivance or conventional expression, hereof one speaks 'perfection of wisdom)
Subhuti: Vậy thì làm sao để biết được Bồ Tát nào đã rèn luyện Trí tuệ hoàn hảo trong bao lâu, và cố công trong Trí tuệ hoàn hảo sâu xa này.
Phật: Cần phải tự mình chẩn đoán, bởi vì có sự khác biệt về khả năng thiên phú của mỗi Bồ Tát
Nguyên do và hậu quả của việc không tin
Vẫn có thể có vị Bồ tát nào đó, mặc dù đã nhìn thấy hay đã thấy hàng trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn Phật, và tiếp tục tiến đến con đường thánh quả, nhưng ở trong một thời gian nào đó không tin vào Trí tuệ hoàn hảo. Lý do là vì bây giờ hay bất cứ lúc nào, người này không tôn trọng khi mà Trí tuệ hoàn hảo đang được diễn nói, ngay cả khi đang ở trước Phật. Ở nơi nào không tôn trọng thì cũng như là không ham muốn học hỏi thêm về Trí tuệ hoàn hảo, không kính phục và tiếp nhận Trí tuệ hoàn hảo, và chính vì điều này mà người này không tin tưởng và không muốn đặt câu hỏi. Vì không tin tưởng, người này bước ra khỏi hội. Đó là vì trong quá khứ người này đã sản sinh hay gây tạo những nghiệp lực có xu hướng hủy báng pháp, chính vì vậy mà người này bỏ đi khi Trí tuệ hoàn hảo này đang được giảng giải. Vì không tôn trọng, không tin tưởng vào Trí tuệ hoàn hảo mà người này mất đi thân và ý. Vì mất đi như vậy người này không biết, thấy, nhận thức hay phổ biến Trí tuệ hoàn hảo này. Đầu tiên là những người này không tin, nên không nghe, và để không thấy thì ngay tại đây người này không nhận ra được và qua đó tạo lập, tích tụ, chồng chất những nghiệp báng pháp ngay trong đời này, ở bất cứ nơi đâu và ở mọi nơi. Sự việc này đem lại nghiệp khiến người này thiếu trí tuệ, và việc này sẽ làm người này từ bỏ, chối từ và phỉ báng Trí tuệ hoàn hảo này khi đang được giảng giải, và vì như vậy người này sẽ bỏ đi. Nhưng khi bỏ đi Trí tuệ hoàn hảo này thì người này cũng từ bỏ toàn giác của Phật, quá khứ vị lai và hiện tại. Không hài lòng với sự gián đoạn sở học của mình, người này cũng thuyết phục người khác, chống phá người theo học Trí tuệ hoàn hảo, những người kém trí tuệ, kém thông minh, công đức và thiện căn, chỉ có chút ít tin tưởng, lòng yêu thích và sự thanh thản, ham thích là, những người mới bắt đầu, cơ bản là ít tiêu chuẩn, lấy đi những gì chút ít lòng tin có được, lòng yêu thích và sự thanh thản, ham thích lúc hiện tại. Người này khuyến khích mọi người không nên tu luyện theo như vầy, và nói rằng đây không phải là lời nói của Phật. Những người này phỉ báng và xa lánh cộng đồng của họ, và của người khác. Người này đã phỉ báng trí tuệ hoàn hảo, và làm như vậy thì đồng nghĩa với phỉ báng toàn giác, và Phật hiện tại quá khứ vị lai. Những người này rời bỏ khỏi nơi chỗ của Phật, xa rời Pháp, xa rời Tăng. Những người này sẽ đóng cửa với Tam Bảo. Những hành động như vậy cắt đứt hạnh phúc của mọi chúng sinh, và người này sẽ tạo nghiệp ở địa ngục. Vì người này gây tạo những nghiệp như vậy nên họ sẽ sinh vào địa ngục, hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng triệu kiếp. Từ ngục lớn này sinh vào ngục khác. Sau một thời gian dài thì thế giới của người này sẽ tràn ngập lửa. Tuy vậy người này sẽ từ địa ngục vào tiếp một thế giới khác, và lại tiếp tục chuyển vần từ địa ngục này sang địa ngục khác. Khi thế giới này ngập lửa rồi. Tuy vậy người này sẽ từ địa ngục vào tiếp một thế giới khác, và lại tiếp tục chuyển vần từ địa ngục này sang địa ngục khác. Khi thế giới của người này sẽ tràn ngập lửathì nghiệp lực của người này vẫn chưa hết, vẫn còn tàn dư, và khi chết đi người này sẽ tiếp tục sinh vào đại địa ngục và chịu đựng khổ sở như vậy, cho đến khi thế giới này cũng ngập lửa. Tuy vậy, như ta thấy, người này vẫn chịu đựng nghiệp dữ. Vì sao? Vì những khóa dạy của người này đều sai lệch cả.
Sariputra: Vậy ngay cả 5 nghiệp vô gián cũng không bằng nghiệp dữ của tâm và ý người này sao?
Phật: Đúng vậy, Những người chống đối Trí tuệ hoàn hảo và khuyến khích người khác làm như vậy thì giống như kẻ mù. Làm sao có thể thân gần, có được địa vị và danh dự từ những người này? Thực ra là phải xem những người này như kẻ báng pháp, rác rưởi, rắn độc. Đây là những kẻ tạo ra điều bất hạnh, phá hoại người nghe. Hãy xem những kẻ phá hoại Trí tuệ hoàn hảo như những kẻ báng pháp
Sariputra: Ngài hãy chưa nói về khoảng thời gian mà người này phải trải qua ở địa ngục
Phật: Thôi đi Sariputra, nếu nói ra thì người nghe hãy coi chừng kẻo máu nóng trào từ miệng, hay đột tử, chết đau đớn, hay là họ bị dày vò, hay là mũi tên của sự đau khổ đâm qua tim họ, hay té xỉu, khô héo và tàn lụi, hay bị hoảng sợ vô cùng. Vì vậy, ta sẽ không trả lời ông. Lần thứ 2, thứ 3 ngài Sariputra thỉnh cầu: Thưa Ngài, cho con hỏi người này sẽ chịu khổ trong bao lâu, để người đời sau thấy rõ
Phật: Vì người này đã đem lại, tích chứa và thu gom những nghiệp của khẩu và ý mà người này phải ở lâu trong địa ngục, cũng như sẽ có nhiều sự hướng dẫn cho thế hệ sau này, thì người này, vì tạo nghiệp chẳng lành của khẩu và ý mà người này sẽ chịu thống khổ trong thời gian dài. Chỉ nhắc tới sự to lớn của nỗi thống khổ và đớn đau trong địa ngục thôi cũng đã đủ để thiện nam và thiện nữ quan tâm và lo âu. Chỉ nhắc tới sự việc này thôi để họ không làm những hành vi báng pháp, và những người này sẽ tạo công đức, và sẽ không rời bỏ pháp, để tự cứu bản thân mình, vì những người này không muốn phải lâm vào cảnh khổ.
Subhuti: Những người như vậy cần phải chú ý đến hành động của mình, của khẩu hay ý. Vì những chỉ dạy sai lệch sẽ làm mất rất nhiều công đức. Thưa Ngài, hành vi nào được xem như là làm mất công đức?
Phật: Những chỉ dạy sai lệch. Đây là những người bị ảo tưởng, từ bỏ thế giới của Pháp, và lại phỉ báng, chống đối lại Trí tuệ hoàn hảo này. Nhưng chống phá Trí tuệ hoàn hảo này thì có nghĩa là chống phá Bodhi của Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Khi chống đối trí tuệ toàn giác thì chính là phá Pháp. Phá Pháp có nghĩa là phá cộng đồng Đệ tử của Phật. Khi làm như vậy thì chống lại, đóng cửa Tam bảo. Người này tạo nghiệp lớn vô cùng, vô tận vô biên.
Subhuti: Vì lý do gì mà những người này thiếu lòng tin và chống đối Trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Những người này bị Ma hại. Nghiệp lực của người này thích hợp cho trí tuệ cạn hẹp, và vì vậy người này không có lòng tin hay tự tin vào Pháp sâu xa. Khi có được pháp ác rooif người này chống lại Trí tuệ hoàn hảo. Hơn thế nữa, người này ở trong tay ác tri thức, hay không được rèn luyện, hay là đặt nền tảng của mình vào 5 uẩn và nghĩ rằng có một cơ sở cho mọi việc, hay là người này khen mình chê người, tìm bắt lỗi của người khác. Có những đặc tính này thì người này tin rằng cần phải chống phá bất cứ nơi đâu diễn giảng Trí tuệ hoàn hảo.
Chương VIII
Sự thanh tịnh thuần khiết
Sự thâm thúy và thuần khiết của Trí tuệ hoàn hảo
Subhuti: Thật khó mà có được sự tin tưởng nơi Trí tuệ hoàn hảo nếu người này không có sự rèn luyện, thiếu căn lành hay trong tay ác tri thức, ác tri thức là người có ý đồ xấu, hành động xấu, lời nói xấu cho vô số chúng sinh
Phật: Đúng vậy, Subhuti. Thật khó mà có được sự tin tưởng nơi Trí tuệ hoàn hảo nếu người này không có sự rèn luyện, thiếu căn lành, kém thông minh, không thèm quan tâm, ít học, hiểu nông cạn về trí tuệ, dựa vào bạn xấu, không tham cầu học hỏi, cũng không muốn đặt câu hỏi và không rèn luyện nơi các pháp
Subhuti: Thưa Phật, Trí tuệ hoàn hảo thâm sâu như thế nào mà lại khó tin tưởng như vậy?
Phật: Hình tướng không bị ràng buộc cũng như không tự do, bởi vì hình tướng không có cá thể riêng biệt của nó, như là cốt lõi, tự có hay được cá nhân hóa theo bất kì nghĩa tuyệt đối nào. Tất cả quá trình vật chất thì thường được xem như là không tồn tại. Sự khởi đầu của bất kì quá trình vật chất nào thì cũng không bị ràng buộc, cũng không tự do hay lạ vượt trên khả năng phán đoán, bởi vì tất cả điểm khởi đầu của quá trình vật chất đều không có tự thể của nó. Những sự kết thúc của chúng cũng không có tự thể, vì tương tự như vậy, bất cứ sự hiện diện rõ ràng thâm sâu (explicitness) của mọi chúng sinh, tính chất chúng sinh, hay sự hiện diện đều không tồn tại như là một thành phần của tự thể không tồn tại của hình tướng hiện tại (nonexistent own-being of sơm present form). Những sự thật hay biến đổi (discursive facts) thì tự bên trong và chính nó đều biến chuyển, huyễn hóa (ephemeron). Và điều này cũng đúng đối với những uẩn còn lại. Tóm lại là tất cả sự vật
Subhuti: Thật là khó, vô cùng khó để mà tin tưởng vào Trí tuệ hoàn hảo nếu nếu người này không có sự rèn luyện, thiếu căn lành, trong tay bạn xấu hay bị ác Ma điều khiển, lười biếng, ít tinh tấn hay không chú ý đến sự nhận thức và biết (mindfulness)
Phật: Đúng như vậy, vì sự thuần khiết của hình tướng là giống (identical) với sự thuần khiết của thành quả, và sự thuần khiết của thành quả cũng giống với sự thuần khiết của hình tướng. Chính vì điều này mà sự thuần khiết của hình tướng và thành quả không thể được nhân lên hay đếm là 2 thứ, cũng không phải bị tách biệt. Và Subhuti, những thừ này cũng không thể được xem như là 1, vì nó không có cơ sở nào để định biết được sự đơn lẻ của nó (singleness). Những thứ này cũng không thể bị bẽ gẫy, hay bị cắt đi. Chính vì vậy, sự thuần khiết của hình tướng đến từ sự thuần khiết của thành quả, và sự thuần khiết của thành quả đến từ sự thuần khiết của hình tướng. Điều này cũng đúng với sự thuần khiết của hình tướng và của toàn giác. Điều này cũng đúng với các uẩn còn lại.
Sariputra: Thật vô biên khó nghĩ, chính trí tuệ hoàn hảo này, thưa Ngài.
Phật: Từ sự thuần khiết này cho ra sự tan biến của cấu bẩn và mờ mịt (obscurity).
Sariputra: Đây đúng là một nguồn ánh sáng hơn hết những nguồn ánh sáng khác
Phật: Từ sự thuần khiết
Sariputra: Trí tuệ hoàn hảo và một ngọn đèn
Phật: Từ sự thuần khiết
Sariputra: Không bị chi phối bởi sự tái sinh
Phật: Từ sự thuần khiết
Sariputra: Hoàn toàn vô cấu
Phật: Từ sự thuần khiết
Sariputra: Đây chính là chẳng phải sự đạt được hay sự tái hợp (attainment or reunion)
Phật: Từ sự thuần khiết
Sariputra: Trí tuệ hoàn hảo không sản sinh ra bất cứ cá thể nào
Phật: Từ sự thuần khiết
Sariputra: Đây chính là không có sự tái sinh của Trí tuệ hoàn hảo vào thế giới dục, sắc, hay vô sắc.
Phật: Từ sự thuần khiết
Sariputra: Trí tuệ hoàn hảo không biết cũng không nhận thức
Phật: Từ sự thuần khiết
Sariputra: Trí tuệ hoàn hảo không thể nhận thức và biết được điều gì?
Phật: Hình tướng, và các uẩn còn lại, Vì sao? Từ sự thuần khiết
Sariputra: Trí tuệ hoàn hảo không giúp đỡ hay cản trở toàn giác
Phật: Từ sự thuần khiết
Sariputra: Trí tuệ hoàn hảo không thu nhận hay từ bỏ pháp nào
Phật: Từ sự thuần khiết
Subhuti: Thuần khiết của hình tướng là nhờ thuần khiết của tự thể
Phật: Vì đó là sự thuần khiết tuyệt đối
Subhuti: Thuần khiết của hình tướng, sự thuần khiết của toàn giác đều là nhờ thuần khiết của tự thể
Phật: Bởi vì đó là sự thuần khiết tuyệt đối
Subhuti: Sự vắng mất của sự đạt được hay sự tái hợp là nhờ thuần khiết của tự thể
Phật: Bởi vì đó là sự thuần khiết tuyệt đối
Subhuti: Hình tướng vv là vô biên bởi vì sự vô biên của tự thể
Phật: Bởi vì đó là sự thuần khiết tuyệt đối
Subhuti: Bồ Tát nào hiểu như vậy thì chính là Trí tuệ hoàn hảo
Phật: Bởi vì đó là sự thuần khiết tuyệt đối
Subhuti: Hơn thế nữa Trí tuệ hoàn hảo không đứng ở bờ kia hay bờ này, không phải ở bờ nào xa hơn, cũng không ở giữa 2 bờ
Phật: Bởi vì đó là sự thuần khiết tuyệt đối
Subhuti: Bồ Tát nào xem sự biết thấu hiểu (insight) như là một đối tượng của sự nhìn nhận (object of perception) thì đi xa trí tuệ hoàn hảo.
Sự gắn kết (attachment)
Phật: Ông nói đúng lắm, Subhuti, vì tên gọi và mọi thứ khác được gọi là như vậy và được cho là nó gắn kết với ý nghĩa như vậy, và dấu hiệu, khi một vật thể hay một nhóm vật thể làm tăng, giảm hay ngay cả cân bằng về chất (substantialness) hay thực tế cho một vật thể khác thì đây chính là nguồn gốc của gắn kết
Subhuti: Thật là tuyệt vời, thưa Ngài, khi thấy được Trí tuệ hoàn hảo được học tập, giải nghĩa, trau chuốt. Phật cũng đã nói về nguồn gốc của sự gắn kết
Sariputra: Subhuti, đâu là những gắn kết này?
Subhuti: Đây là sự gắn kết khi người này nghĩ rằng uẩn là vắng lặng (empty), hay pháp ở quá khứ là pháp ở quá khứ, pháp ở tương lai là pháp tương lai, pháp hiện tại là pháp hiện tại. Đây chỉ là những tên gọi. Sự gắn kết xảy ra khi người này nghĩ rằng “người thuộc Bồ Tát thừa có nhiều công đức bởi vì đã phát tâm nghĩ đến Bodhi”. Đây chỉ là những dấu hiệu
Sakra: Vậy thì khi nào, Subhuti, mà những ý nghĩ về Bodhi trở thành nguồn gốc của sự gắn kết ràng buộc?
 Subhuti: Người này bị ràng buộc khi họ nghĩ những suy nghĩ về Bodhi rằng “Đây chính là suy nghĩ đầu tiên của Bodhi”. Người này định chuyển ý nghĩ như vậy thành Bodhi, và họ biết là họ đang làm như vậy. Vì thực sự thì không thể chuyển giao tính tự nhiên cốt yếu (essential original nature) của suy nghĩ bằng suy nghĩ. Những suy nghĩ hay sự vật thì không phải và cũng không phải không phải sự thực và thực tế, vì người này chỉ biết được như thể và chỉ ra bằng một cách nào đó, cái này tới cài này, ở trong tự thể của cái này (such to such (‘others’) within Suchness)
Khi đã tiết lộ như vậy thì người này không lãng phí (waste away) cá thể nào hay sự thể nào, và cách mà người này khuyến khích người khác đến với tính chất của tự thể (suchness) là nhờ sự chấp thuận của Phật. Chính vì vậy, người này loại bỏ hết những gắn kết.
Phật: Nói đúng lắm, Subhuti, ông giúp cho Bồ tát biết được những điểm của sự gắn kết. Ta bây giờ sẽ nói đến những sự gắn kết khác khó thấy hơn. Hãy nghe kỹ và chuyên tâm nghe ta dạy
Xin Ngài cứ nói, Subhuti im lặng lắng nghe
Phật: Này Subhuti, thiện nam thay thiện nữ nào, tin tưởng trong sáng, đến với và hầu cận Phật nhờ vào một dấu hiệu nào đó, nhưng quả thật là quá nhiều dấu hiệu và ràng buộc. Chính vì việc này, Subhuti, từ dấu hiệu sinh ra gắn kết. Bằng cách này, và người này biết như vậy, người này tùy hỷ với tất cả các pháp, không có cấu bẩn (outflow) cho là Phật quá khứ, vị lai hiện tại (no outflow of Buddha thought of as present…). Khi tùy hỷ như vậy người này chuyển giao công đức tùy hỷ thành Bodhi. Tuy vậy về mặt khác thì tính tự nhiên của các pháp này không phải quá khứ hiện tại hay vị lai, vì chúng nằm ngoài lĩnh vực của thời gian. Chính vì điều này mà chúng không thể được chuyển đổi (convert), vì thế, đơn giản là ta không thể xem pháp như là một dấu hiệu, hay một chỗ dựa vật chất, và sự thật tuyệt đối là pháp không thể được nhìn thấy, nghe hay cảm nhận, hay biết được, vì những việc này bao hàm cá thể huyễn hóa trong quá trình phức tạp của cá thể, đối lập với tự nhiên đơn giản.
Không gắn kết
Subhuti: Pháp thì trên cả thâm sâu và hiện hữu, thưa Ngài, đây chính là bản tính của pháp
Phật: Bởi vì pháp là riêng biệt
Subhuti: Bản tính của Trí tuệ hoàn hảo là không thể nghĩ bàn
Phật: Cũng giống như tất cả bản tính cốt lõi của tự nhiên thì thuần khiết và riêng biệt, đây chính là sự diễn giải Trí tuệ hoàn hảo như đến sâu hơn với cốt lõi tự nhiên, nhưng tuy vậy vẫn không phải Trí tuệ hoàn hảo
Subhuti: Cốt yếu tự nhiên của Trí tuệ hoàn hảo thì tách biệt. Con kính lễ Trí tuệ hoàn hảo
Phật: Cũng giống như vậy các pháp đều là riêng biệt, như bản tính tự nhiên của chúng.Và bản tính riêng biệt (isolated) này thì giống với Trí tuệ hoàn hảo. Vì Phật biết là các pháp không được tạo ra.
Subhuti: Vậy tất cả các pháp có đặc tính là không thể biết thấu suốt bởi Phật?
Phật: Cũng giống như cốt yếu tự nhiên, những pháp này không phải là một vật. Bản tính của pháp là không có bản tính, và không bản tính chính là bản  tính của pháp. Tất cả các pháp đều có một đặc điểm là không có đặc điểm nào cả.  Chính vì lý do này mà tất cả các pháp có đặc tính là không thể biết thấu suốt bởi Phật. Đây không phải là 2 bản tính của Pháp, mà là chỉ có một là bản tính của các pháp. Và bản tính của các pháp là không bản tính, và không bản tính (nature) chính là bản tính của Pháp. Chính vì vậy mà mọi sự ràng buộc bị cởi bỏ.
Subhuti: Trí tuệ hoàn hảo càng thâm sâu hơn, thưa Ngài
Phật: Vì sâu như là không gian
Subhuti: Thật khó mà hiểu Trí tuệ hoàn hảo, thưa Ngài
Phật: Người đạt được Bodhi không phải là biết tất cả
Subhuti: Trí tuệ hoàn hảo thì thật khó nghĩ bàn, thưa Ngài
Phật: Trí tuệ hoàn hảo không phải là một thứ gì đó mà ý nghĩ có thể biết, hay là cái gì đó mà suy nghĩ có thể đạt đến được
Subhuti: Chính vì vậy, Trí tuệ hoàn hảo không phải có gì mà làm ra, thưa Ngài
Phật: Chính vì vậy, không có người tạo ra, cũng không có “vật gì” được tạo ra
Subhuti: Vậy thì ở trường hợp nào thì Bồ Tát có thể đi trên Trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Bồ Tát có thể đi trên Trí tuệ hoàn hảo khi người này không đi trên các uẩn, hay cũng không nghĩ rằng các uẩn là vô thường hay vắng lặng, hay nghĩ rằng các uẩn không toàn hảo hay bị thiếu sót. Và khi người này không nghĩ rằng các uẩn không toàn hảo hay bị thiếu sót thì người này đi trên Trí tuệ hoàn hảo, nhưng chỉ khi có những biểu hiện cho bất cứ ai thấy được, hay là người này có thể thấy được nhiều ít (or to such a greater or lesser degree as one may for one's self make perceptible ). Dù là nhiều hay ít thì Tí tuệ hoàn hảo vượt lên trên những sự việc này
Subhuti: Thật là tuyệt vời thưa Ngài, những lý do của sự ràng buộc và không ràng buộc của Bồ Tát đã được giải thích
Phật: Người đi trên Trí tuệ hoàn hảo khi người này không đi trên ý nghĩ rằng hình tướng là có ràng buộc, hay không có ràng buộc. Và đối với hình tướng, cũng như các uẩn, các giác quan, cho đến cảm xúc từ thị giác; nên các nguyên tố vật lý nào, 6 hoàn hảo, 37 cánh Bodhi, 18 Phật-Pháp đặc biệt và các thánh quả, từ quả Dự Lưu đến toàn giác. Khi người này đi như vậy thì Bồ Tát không tự ràng buộc mình với bất cứ thứ gì, từ hình tướng đến toàn giác. Vì toàn giác thì không bị ràng buộc, không bị trói buộc hay tự do, và không có gì có thể hơn được cái này, như vậy, ngay cả đến với bất kỳ cá thể nào (such as this is, even unto any self). Chính vì vậy, Subhuti, Bồ Tát đi trên con đường hoàn hảo bằng cách vượt qua hết thảy các sự ràng buộc.
Như không gian hay tiếng vọng
Subhuti: Thật là tuyệt vời, thưa Ngài, Pháp này, ý con là Trí tuệ hoàn hảo này thì rất thâm sâu. Sự diễn tả Trí tuệ hoàn hảo thì không làm nó tăng lên hay giảm đi. Không diễn tả (non-demonstration) cũng không làm nó tăng lên hay giảm đi.
Phật: Đúng như vậy, Subhuti. Cũng giống như các Đức Phật, trong suốt cuộc đời mình, ca tụng không gian, nhưng không làm tang hay giảm thể tích của không gian; và không gian cũng không bị giảm đi khi người này không ca tụng nó. Hoặc cũng như một người huyễn hóa, ca tụng thì người này cũng không bị đánh ngã. Khi mà người này không bị ảnh hưởng bởi lời ca tụng, cũng không tức giận, thì bản tính thật của pháp cũng giống như vậy, bất luận là có diễn đạt nó hay không
Subhuti: Bồ Tát là người làm những việc khó làm, khi đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì người này không mất đi sự kiên nhẫn, và cũng không hứng thú; người kiên trì cố gắng đi trên con đường này mà không thoái lui. Tất cả sự phát triển bằng cách diễn nói Trí tuệ hoàn hảo, qua việc xóa đi những chướng ngại, thì cũng giống như đang phát triển trong không gian vậy (development towards space). Những Bồ Tát mặc áo giáp này thì ta nên kính lễ. Vì người này mặc áo giáp với không gian và làm như vậy vì lợi ích mọi người. Vị Bồ Tát này muốn mặc áo giáp, là người giải thoát chúng sinh giống như không gian, như vùng của pháp, người này muốn tiến đến Bodhi. Người muốn giải thoát như không gian, muốn xóa bỏ không gian, mặc áo giáp của sự tinh tiến hoàn hảo này, vị Bồ Tát này mặc áo giáp vì lợi ích của mọi người như như không gian, như vùng của pháp (dharma realm)
Lúc này, có một vị tăng đến lễ bái Phật, chắp tay lại và nói: Con kính lễ Trí tuệ hoàn hảo! Vì Trí tuệ hoàn hảo không sản sinh hay ngừng lại bất cứ pháp nào
Sakra: Subhuti, nếu có người muốn tinh tấn trong Trí tuệ hoàn hảo này thì những sự cố gắng này là gì, và đi đến đâu?
Subhuti: Người này cố gắng đến không gian. Và người này cố gắng tới chân không nếu muốn tu luyện trong Trí tuệ hoàn hảo hay đi đến Trí tuệ hoàn hảo
Sakra: Xin Ngài, hãy ra lệnh cho con che chở, bảo vệ và thủ hậu thiện nam hay thiện nữ nào suy nghĩ về Trí tuệ hoàn hảo!
Subhuti: Sakra, ông có thấy pháp nào mà ông có thể che chở bảo vệ chăng?
Sakra: Không, Subhuti
Subhuti: Cũng vậy khi Bồ Tát đứng vững trên Trí tuệ hoàn hảo khi Trí tuệ hoàn hảo đang được diễn nói thì chính đây là sự che chở và bảo vệ cho người này. Mặc khác, nếu người này thiếu mất Trí tuệ hoàn hảo thì người và ma sẽ tìm cách đột nhập vào người này. Tuy vậy, chúng ta vẫn muốn bảo vệ cho những Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo. Ông nghĩ sao, Kausika, Ông có thể che chở bảo vệ một tiếng vọng chăng?
Sakra: Không thể, Subhuti
Subhuti: Cũng giống như vậy, tất cả Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì hiểu rằng tất cả các Pháp đều là như tiếng vọng. Người này không nghĩ nhiều về việ này, không xem xét, nhận điểm hay nhận thức như vậy, và biết rằng những pháp này không tồn tại, sự thực của nó không hiện ra, không thể được tìm thấy, không thể được nắm lấy. Nếu người này suy tư như vậy thì tức là đi trên Trí tuệ hoàn hảo
Kết Luận
Vào lúc này, nhờ vào thần lực Phật, Tứ Đại thiên vương trong Tam thiên Đại thiên và những vị Đế Thích, Chư Thiên Brahma, Sahapati, Brahma vĩ đại, tất cả đều đến chỗ của Phật. Những người này đê đầu tôn kính lễ bái Phật và nhiễu bên phải 3 vòng, và đứng sang một bên. Nhờ thần lực của Phật và khả năng kỳ diệu, những người này thấy có 1000 vị Phật.
Chính bằng những từ ngữ này, bởi các vị tăng tên gọi Subhuti, vv, Trí tuệ hoàn hảo đã được diễn đạt, chính chương Trí tuệ hoàn hảo này. Với những vị Sakra, hỏi, đáp (counter-question). Ở tại nơi này Trí tuệ hoàn hảo được diễn giải. Di Lặc Bồ Tát cũng đạt được Bodhi tại nơi này, và giảng dạy chính Trí tuệ hoàn hảo này.
Chương IX
Ca tụng
Trí tuệ hoàn hảo hoàn toàn thuần khiết
Subhuti: Nếu gọi là Trí tuệ hoàn hảo thì thưa Ngài, đây chỉ là một tên gọi. Tên này đúng với điều gì thì không thể biết. Ta chỉ nói đến tên khi muốn ám chỉ cái gì đó nhỏ bé. Ngay cả Trí tuệ hoàn hảo cũng không thể được tìm thấy và đạt tới. Cũng như chỉ đây là một thế giới, thì đây cũng là Trí tuệ hoàn hảo, cũng như chỉ đây là Trí tuệ hoàn hảo, thì đây cũng là thế giới (world). Sự lưỡng đôi (duality) tính chất của Pháp giữa 2 sự thể này không thể được tìm thấy hay nắm bắt được. Vì lý do gì mà ngài Maitreya, khi đạt được Bodhi, thì cũng thuyết chính Trí tuệ hoàn hảo này ở chính địa điểm này bằng những từ ngữ như vậy?
Phật: Lý do là ngài Maitreya sẽ xóa đi những trở ngại về sự hiểu biết, Bodhi, rằng ngũ uẩn không vô thường, cũng không thường, bởi vì chúng không bị trói buộc, cũng không tự do, hoàn toàn là thuần khiết
Subhuti: Trí tuệ hoàn hảo thì thật thuần khiết
Phật: Trí tuệ hoàn hảo thì thuần khiết cũng như các uẩn là thuần khiết, và cũng như vậy thì sự không sản sinh cũng hoàn toàn thuần khiết, sự không dừng lại và không cấu bẩn và không biến thành thuần khiết (non-purification). Trí tuệ hoàn hảo thì thuần khiết cũng như không gian và các uẩn đều không cấu bẩn, và những quá trình làm vấy bẩn cũng không thể bắt lấy những thứ này. Trí tuệ hoàn hảo thì rất thuần khiết, cũng như không gian hay tiếng vọng, những sự việc như vậy thì không thể diễn tả, không thể tường thuật lại được, và không có cơ sở để nắm bắt. Thuần khiết như vậy đến nỗi không bị bao phủ bởi các pháp, dù là vô cấu hay không
Hiệu quả của Trí tuệ hoàn hảo
Subhuti: Quả thật là một món lợi lớn cho thiện nam và thiện nữ đến đây và được nghe Trí tuệ hoàn hảo này. Không cần phải nói đến những ai tiếp nhận, giữ trong trí, tụng, học, lưu truyền, giải thích và thấu hiểu được. Mắt, tai, mũi, lưỡi và thân thể họ sẽ không có bệnh, tinh thần cũng không bị ngu mê. Những người này không chết thảm, vô số ngàn chư Thiên đi theo. Vào ngày 8, 14 và 15, người này nói Pháp, thiện nam thiện nữ nào diễn nói Trí tuệ hoàn hảo thì người này cũng được rất nhiều công đức
Phật: Đúng như vậy, Subhuti. Nhiều ngàn chư thiên đi theo thiện nam thiện nữ này, và nhiều ngàn chư thiên cũng đến đây nghe Trí tuệ hoàn hảo được làm sáng tỏ và tiết lộ. Vì ham cầu pháp nên những người này bảo vệ người thuyết pháp Trí tuệ hoàn hảo cho những ai có ý định và ham nghe học. Vì Trí tuệ hoàn hảo là quý giá nhất trong thế giới với chư Thiên, người, A tu la. Chính vì lý do này mà người này được phước khác hơn hẳn những gì được gọi là công đức lớn. Mặt khác, cũng có nhiều trở ngại khi Trí tuệ hoàn hảo này được viết ra, tiếp nhận, giữ trong trí, tụng, học, lưu truyền, giải thích và nói. Bởi vì những gì quý báu thì đều bị chống đối mãnh liệt. Những bài giảng càng xuất sắc thì sự chóng đối càng hung hãn hơn. Nhưng đây là quý nhất trong toàn thế giới hệ, chính Trí tuệ hoàn hảo này được diễn nói để cho lợi ích và hạnh phúc của những thế giới này, khi chỉ ra rằng tất cả các pháp thì không được sản sinh cũng không bị phá hủy, không bị vấy bẩn hay làm cho thanh tịnh. Và Trí tuệ hoàn hảo không bám víu vào pháp nào cả, không vấy bẩn pháp nào, cũng không nắm lấy pháp nào. Tất cả và bất kỳ pháp nào đều không tồn tại và cũng không được nắm lấy hay với tới. Vì không thể nắm bắt được nên Trí tuệ hoàn hảo không bị vấy bẩn/ “Vô cấu” chính là đồng với Trí tuệ hoàn hảo, và cũng giống như các uẩn đều không cấu bẩn, cũng như Trí tuệ hoàn hảo không bị cấu bẩn. Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo khi mà người này không thấy được điều này (does not perceive this), bời vì Trí tuệ hoàn hảo thì vượt trên sự nhận thấy hay nguyên lý nào (concept). Hơn nữa, Trí tuệ hoàn hảo không nhập vào hay đặt chính “nó” vào pháp nào, không tiết lộ hay định nghĩa pháp nào, không đem lại hay lấy đi pháp nào.
Chuyển Pháp luân lần thứ 2
Vào lúc này, hàng ngàn chư thiên ở cõi nãy thốt lên vì vui sướng, vẫy vạt áo, và nói: Chúng tôi bây giờ thấy có chuyển pháp luân ở cõi Jambudvipa này!
Phật: Subhuti, đây không phải là chuyển Pháp luân lần thứ 2. Không có pháp nào có thể được chuyển lui hay ngược. Đây chính là trí tuệ hoàn hảo của Bồ Tát…chính đây tiến đến đỉnh của sự nhận thức và nguyên lý, chính là sự hoàn hảo này. Điều này vượt lên trên những gì gọi là chuyển
Subhuti: Đây chính là sự hoàn hảo của Bồ Tát khi người này không ràng buộc vào Pháp nào cả, và muốn biết được Bodhi, và là người chưa tới (yet) được sự khai sáng về pháp nào cả, hay là người chuyển pháp luân nhưng không đưa ra biểu hiện một pháp nào cả. Bởi vì không có pháp nào ở đây được tiến đến, và không có pháp nào được nhắc tới, không có pháp nào di dời pháp nào. Bởi vì sự sản sinh (reproduction) là hoàn toàn không thuộc về pháp. Cũng như vậy không có pháp nào quay ngược (turn back) pháp nào. Từ sự khởi đầu khai sơ vốn không khởi đầu (beginningless beginning), bất cứ pháp nào cũng không được sản sinh, vì tính chất cốt yếu của nó thì tách biệt, riêng biệt
Phật: Đúng như vậy, Subhuti, vì sự không, sự vắng lặng không tiến không lùi, và sự vô dấu hiệu, vô ước muốn (signless, wishless) cũng giống như vậy. Khi đã diễn tả như vầy thì chính là diễn tả hết thảy các pháp. Nhưng không có ai diễn tả điều này, không ai nghe, không ai nhận, và không ai nhận ra (realize) được điều này ở quá khứ, vị lai hay hiện tại. Cũng không phải nhờ sự diễn tả này của pháp mà có người nào đến Nirvana, cũng không phải nhờ sự diễn tả này của pháp mà có người nào đáng được cúng dường
Phương tiện (mode) và Giá trị của Trí tuệ hoàn hảo
Subhuti: Sự hoàn hảo này cũng giống như thứ gì không có thì không (no-thing whatsoever is not), cũng giống như không gian thì không phải là một thứ gì đó. Trí tuệ hoàn hảo ngang bằng với những gì không bằng được (unequalled), pháp thì không nắm bắt được. Trí tuệ hoàn hảo thì riêng biệt, bởi vì sự vắng lặng tuyệt đối. Trí tuệ hoàn hảo không thể bị nghiền ra được, như pháp thì không thể nắm bắt được. Trí tuệ hoàn hảo thì không có dấu vết đường đi (trackless), vì cả thân và tâm đều không có. Trí tuệ hoàn hảo thì không có tự thể, không đi không đến. Trí tuệ hoàn hảo thì không thể diễn tả được, vì tất cả các pháp  đều không thể phân biệt. Trí tuệ hoàn hảo cũng vô danh, vì tất cả các uẩn đều khong thể nắm bắt được. Trí tuệ hoàn hảo không ra đi, vì chưa từng tới, không có pháp nào ra đi. Không thể tham gia (partake) cùng với Trí tuệ hoàn hảo, vì không có pháp nào có thể nắm lấy được. Trí tuệ hoàn hảo là vô tận, không hết, vì không thể xóa được đối với pháp vô tận. Trí tuệ hoàn hảo không có sự khởi nguyên, vì không có pháp nào xuất hiện (come about). Trí tuệ hoàn hảo không làm gì cả, vì không có người làm hành động nào được nắm bắt. Trí tuệ hoàn hảo không sản xuất (generate) ra điều gì, bởi vì các pháp là không có tự tánh. Trí tuệ hoàn hảo không chuyển nhượng (pass on), vì đây không có khởi nguyên của sự mất đi hay tái sinh. Trí tuệ hoàn hảo không giáo dục, bởi vì quá khứ vị lai hiện tại không thể nắm bất được. Trí tuệ hoàn hảo như một giấc mơ, một tiếng vọng, một hình ảnh phản chiếu, như thấy nước trong sa mạc, như ảo tưởng, và được chính xác xem như là không sản sinh. Trí tuệ hoàn hảo thì không cấu bẩn, cũng như tham sân si thì không có tự thể của nó. Trí tuệ hoàn hảo không biết được thanh khiết, vì không có cơ sở, đài, (receptacle) nào được nắm lấy. Trí tuệ hoàn hảo là không chút gợn bẩn, như không gian thì không gợn bẩn. Trí tuệ hoàn hảo không bị cản trở, vì nó tự phát có mặt xuyên suốt và vượt trên mọi thái độ trí óc đối với pháp (mental attitude). Trí tuệ hoàn hảo không có thái độ trí óc, vì nó không thể bị kích động. Trí tuệ hoàn hảo thì không lay chuyển, cũng giống như sự cân bằng của bất cứ lãnh địa (realm) nào của pháp. Trí tuệ hoàn hảo không biết tham, vì ở đây không có sự dối trá nào của pháp. Trí tuệ hoàn hảo không dấy lên (rise up), vì không có sự phân biệt của các pháp. Trí tuệ hoàn hảo thì yên lặng, vì không có dấu hiệu nào có thể nắm bắt được từ các pháp. Trí tuệ hoàn hảo là không sai, cũng như sự hoàn hảo của đạo đức. Trí tuệ hoàn hảo thì không thể bị vấy bẩn, vì sự tưởng tượng là những gì không có thật. Không có trạng thái đang sống hay sắp chết mà được tìm thấy như là Trí tuệ hoàn hảo (no living or dying being is found as perfection of wisdom),  vì ở đây không có giới hạn của thực tế (reality-limit). Trí tuệ hoàn hảo thì vô biên, vì sự hiển bày (manifest) của các pháp đều không dấy lên. Trí tuệ hoàn hảo không đi theo 2 thái cực trái ngược nhau (duality of opposite), vì nó không trụ lại ở bất kỳ pháp nào. Trí tuệ hoàn hảo thì không thể phân hóa (undifferentiated), vì mọi pháp đều vắng lặng nhưng lại được chỉ rõ (indicated). Trí tuệ hoàn hảo thì không bị tì vết, vì nó hoàn toàn không ham muốn châu báu (địa vị?) của Thanh Văn và Duyên Giác. Trí tuệ hoàn hảo thì không bị phân biệt, vì đây chính là tiêu chuẩn, nhận dạng cơ sở mà qua đó mọi thứ được phân biệt. Trí tuệ hoàn hảo thì vô biên, cũng như pháp tính thì vô biên. Trí tuệ hoàn hảo không bị ràng buộc, vì nó không bị ràng buộc vào các pháp. Trí tuệ hoàn hảo thì không có điều kiện, không nguyên tố (unconditioned), vì mọi pháp đều là vô thường và chỉ là sự chỉ ra như vậy. Trí tuệ hoàn hảo thì như không gian, cũng như mọi pháp thì giống như vô thường. Trí tuệ hoàn hảo là vắng lặng, vì bất cứ hay tất cả pháp nào đều không nắm bắt được. Trí tuệ hoàn hảo thì không phải là tự cá thể, vì không trụ lại ở bất cứ hay tất cả pháp nào. Trí tuệ hoàn hảo thì không có đặc điểm, vì không có sự sản sinh của các pháp.
Sự hoàn hảo này là sự vắng lặng hoàn toàn, vô tận vô biên. Sự hoàn hảo này là cánh của Bodhi, cũng như trụ cột của tâm ý thức (mindfulness), vv. Vì những cái này không thể nắm bắt được. Đây là sự hoàn hảo của sự vắng lặng, vô dấu hiệu, không ước muốn, cũng như 3 cửa tới giải thoát cứu cánh không thể được nắm bắt được. Đây là sự hoàn hảo của 8 giải thoát, cứu cánh (deliverance), vì chúng không thể được nắm bắt. Đây chính là sự hoàn hảo của 9 trạm liên tục (successive station), thiền (trance) thứ nhất, vv. Cũng không thể nắm bắt được. Đây là sự hoàn hảo của 4 Sự thật, vì sinh lão bệnh chết cũng không thể nắm bắt được. Đây là sự hoàn hảo của 10 sự hoàn hảo, như bố thí, vv cũng không thể nắm bắt được. Đây là sự hoàn hảo của 10 lực, vì nó không thể bị nghiền nất. Đây là sự hoàn hảo của 4 địa tự tin, vì những sự như vậy không thể bị chùn bước, thoái chí. Đây là sự hoàn hảo của trí tuệ phân tích, vì những sự như vậy không thể bị ngăn cản khi mà nó không gắn kết với toàn giác. Đây là sự hoàn hảo của của Phật pháp đặc biệt, vì nó vượt trên sự tính đoán. Đây là sự hoàn hảo của thể tính của Phật, vì không có sự dối trá nào trong pháp cả. Đây là sự hoàn hảo của sự tự tồn tại, vì tất cả các pháp không có tính riêng độc lập cá nhân (own being). Trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo của trí biết hết, vì nó nhận biết (aware) được trong tất cả những phương cách của sự tự thể của pháp (all of any modes of any own being of all dharma)  








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét