Chương X
Nói về lợi ích của việc giữ trong trí
Hành động trong quá khứ, và thái độ hiện tại về Trí tuệ
hoàn hảo
Lúc này Sakra nghĩ như vầy: Những người đến nghe Trí tuệ hoàn
hảo hành đông theo như suy nghĩ và cái nhìn về cái được gọi thường
là Jinas thời trước. Những người này không ngừng trồng thiện căn
trước vô số đức Phật, nắm giữ và được thiện tri thức nắm giữ. Có
được siddhi vốn được nhận biết là đã có được (already in place), vượt
lên trên những sự xác định thường về vấn đề vì sao và bằng cách
nào mà pháp trở nên như vậy (comes to be), những người này, tiếp nhận
Trí tuệ hoàn hảo, giữ trong trí, học tập, giải thích, lưu truyền,
thì những người này hiện tại đã làm việc này rồi
Hơn thế nữa, và trên cả ý thức hay sự cố gắng như vậy, những
người này cùng lúc đã là rèn luyện trong sự như vậy (thusness) và
tiến đi trong sự như vậy, nhưng không dụng công trong sự như vậy. Cũng
như suy nghĩ, từ ngữ, khái niệm, những sự như vậy thì không lien quan
mật thiết đến bất cứ thứ gì trên cả điểm khởi đầu, nhưng vẫn dễ
dàng biết được như vậy, vì xu hướng và ý định cho phép, và cuối
cùng thì hiểu được. Những người này không phải chỉ có những căn
lành nhỏ nhặt. Đây là những người đã hiến cúng nhiều vị Phật, và
đặt câu hỏi cho những vị này. Chính Trí tuệ hoàn hảo người này đã
nghe được trong quá khứ và vẫn nghe trong hiện tại với Phật hiện hữu
hay không hiện hữu. Những người này trồng căn lành nơi Phật. Đây đơn
giản là cách của những thiện nam thiện nữ này. Ngay khi Trí tuệ
hoàn hảo này được dạy thì những người này giải thích, hiểu và lặp
lại, không hoảng sợ hay cương nghị thản nhiên, không buồn bã, không bỏ
đi, không run sợ, không sợ hãi.
Sariputra, khii đọc được suy nghĩ của Sakra thì liền nói: Những
người là Bồ Tát không thoái chuyển là những người khi nghe được Trí
tuệ hoàn hảo thâm sâu này thì tin tưởng, tin chắc như thật, tin tưởng
trong sáng, giúp người khác phat Bodhi tâm, suy nghĩ tới Bodhi, tiếp
nhận, giải thích, tiết lộ, viết chép, tụng, tu luyện trí tuệ hoàn
hảo này, tu luyện trong sự thật như vậy, tiến tới sự thể như vậy,
nhưng không dụng công khi làm việc này và xem nó như là một cơ sở hay
mục tiêu. Vì trí tuệ hoàn hảo này rất mực thâm sâu, và những người
thiện căn kém cỏi, không muốn đặt câu hỏi thì không học được gì khi
đối diện với Phật vào bất cứ trong 3 thời gian nào, và cũng không tu
luyện trong 3 thời gian, những người này không thể tin tưởng chỉ vào
lúc này mà có thể tin tưởng trí tuệ hoàn hảo này, và từ bỏ trí
tuệ hoàn hảo trong 3 thời gian, những người này từ bỏ trí tuệ hoàn
hảo khi đang được diễn giải, và đây chính là không biết gieo trồng
thiện căn, hay để thiện căn phát triển. Vì những người nào đã không
rèn luyện thì cũng không rèn luyện lúc này cũng như trong tương lai,
những người như vậy không tin tưởng trí tuệ hoàn hảo. Vì khi từ bỏ
trí tuệ hoàn hảo trong hiện tại thì trong quá khứ và tương lại cũng
vậy, vì những gì hiện tại cũng là quá khứ, cũng là vị lai, cùng
một lúc như vậy. Hãy xem, Sakra, hiện tại chỉ là suy nghĩ về 3 thời
gian (quá khứ, vị lại). Vì những gì được nghĩ là đã qua đi thì chỉ
là như vậy khi suy nghĩ trong hiện tại nhìn nhận nó là như vậy, cũng
tương tự đối với tương lai. Đây là lý do vì sao khi trí tuệ hoàn hảo
thâm sâu này được diễn giải thì trong 3 thời gian, nếu người này không
có sự tin tưởng, sự kiên nhẫn, hay niềm vui, ước muốn làm theo, không
có tinh tấn, không để ý (vigilance), không quyết tâm. Thì trong quá khứ
cũng vậy, trong hiện tại người này không đặt câu hỏi với Phật hay đệ
tử của Ngài.
Sakra: Thật là vô cùng thâm sâu, thưa Sariputra, thâm sâu thay trí
tuệ hoàn hảo, vậy điều này tôi thấy không lạ tí nào khi trí tuệ
hoàn hảo đang được diễn giải mà Bồ Tát nào đó lại không tin, vì
người này không rèn luyện trong quá khứ trí tuệ hoàn hảo.
Sakra nói với Phật: Con kính lễ, thưa Ngài, tới trí tuệ hoàn
hảo! Khi mà kính lễ tới trí tuệ hoàn hảo thì cũng tức là kính lễ
đối với sự biết toàn giác.
Phật: Đúng vậy, từ đây nảy lên sự toàn giác của Phật, và cũng
vậy (conversely), trí tuệ hoàn hảo có được là nhờ sự biết toàn
giác. Đây là lý do vì sao cần phải mong mỏi thực hành trí tuệ hoàn
hảo, tinh tiến nỗ lực đối với trí tuệ hoàn hảo
Sakra: Vậy làm sao mà Bồ Tát có thể thực hành trí tuệ hoàn
hảo, trở thành người trụ trong trí tuệ hoàn hảo? Làm sao để nỗ lực
trong trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Hỏi hay lắm, hay lắm, Sakra. Lần nữa, ta nói, hay lắm, hay
lắm, Kausika, vì ông đã hỏi Phật về vấn đề này, vì khi hỏi tức là
ông đã được khơi dậy cảm hứng (inspired) từ thần lực Phật. Đây ta
nói, Kausika, Bồ Tát thực hành trí tuệ hoàn hảo, hay chính trí tuệ
hoàn hảo thì không trụ tại ngũ uẩn, không phát triển những cơ sở ý
nghĩ như “đây là hình tướng, đây là cảm xúc, nhìn nhận, vv” vì như
vậy chính là người này đã cố gắng dụng công về bất kỳ hay tất cả
ngũ uẩn này. Người này không nghĩ rằng đây là hình tướng, cảm xúc,
vv. Và vì người này suy nghĩ như vậy nên người này không trụ tại suy
nghĩ rằng đây là hình tướng, vv. Dây gọi là trụ tại trí tuệ hoàn
hảo, và như vậy là cố gắng thực hành trí tuệ hoàn hảo
Subhuti: Lúc này con nghĩ đến một bài hát: Một vị chư thiên, ở
nơi xa nhất của mà đêm, ánh hào quang của người này chiếu sáng toàn
thảy vườn Kỳ Đà (Jeta), tiến tới Phật. Khi đến nơi rồi người này
lạy Phật rồi, đứng qua một phía. Khi đứng như vậy thì người này hỏi
:Thưa Ngài, xin cho con biết làm thế nào mà Ngài vượt qua bờ bên kia”
“Ta vượt qua bằng cách không đẩy mình về phía trước, cũng không
đứng yên tại một chỗ
Nhưng thưa Ngài, làm sao mà Ngài vượt qua cơn lụt mà không đẩy
mình về phía trước, cũng không đứng yên tại một chỗ?
“Khi ta đẩy mình về phía trước thì ta bị xoáy nước đẩy chệch
(whirl about), khi ta đứng yên thì ta chìm. Vì vậy ta đã vượt qua cơn
lụt mà không đẩy mình về phía trước, cũng không đứng yên tại một
chỗ.”
Tiên nữ nói: Cuối cùng thì con cũng thấy thấy được một vị
Brahman hoàn toàn không bị trói buộc, không đẩy mình về phía trước,
cũng không đứng yên tại một chỗ mà vượt ra khỏi sự ràng buộc rối
rang của thế giới”. Đây là những gì mà vị tiên nói
Phật Thầy chấp thuận, khi biết rằng “Thầy đã chấp nhận”, người
này lạy Ngài, nhiễu bên phải 3 vòng và rồi biến mất
Sariputra: Thưa Ngài, quả thật trí tuệ hoàn hảo thì rất thâm
sâu, khó hiểu, khó nắm bắt (grasp), vô cùng vô biên.
Phật: Đúng như vậy, Sariputra. Không nên trụ tại ý nghĩ rằng
ngũ uẩn là thâm sâu. Khi không trụ tại ý nghĩ rằng “không dụng công
(make effort) về ngũ uẩn” thì người này không dụng công về những suy
nghĩ rằng “ngũ uẩn là thâm sâu”. Khi người này đã không dụng công về
những ý tưởng đó thì người này không trụ lại ý nghĩ rằng “ngũ uẩn
thì thâm sâu”.
Những gì Bồ Tát đạt được khi sở hữu trí tuệ hoàn hảo
Sariputra: trí tuệ hoàn hảo chỉ nên dạy cho Bồ Tát bất thoái
chuyển, hay những người đã được thọ ký, thì những người này mới
hiểu được trí tuệ hoàn hảo, và chỉ như vậy thì trí tuệ hoàn hảo
này mới được giảng dạy. Vì những người này không nghi ngờ, hiểu
thấu và không cãi lý trí tuệ hoàn hảo (dispute).
Sakra: Vậy nếu trí tuệ hoàn
hảo được giảng trước Bồ tát chưa được thọ ký thì có sai lầm ở đâu
không?
Sariputra: Kausika, nếu Bồ Tát chưa được thọ ký mà nghe được
trí tuệ hoàn hảo, nhìn thấy, ca tụng, thờ phụng và lắng nghe, và người
này không sợ hãi khi nghe được điều này thì cần phải biết người này
đã từ xa đến đây, đã đi theo thừa này từ lâu, và thiện căn người này
đã thành thục. Không lâu sau bây giờ thì người này sẽ được thọ ký Vô
thượng Bodhi. Cần phải biết sự thọ ký đã gần kề, và sẽ đến khi
người này gặp một, hai hay ba Phật Ngài. Và dĩ nhiên là người này
sẽ làm vui lòng các Phật, làm vui lòng không ngơi, và người này thấy
những vị Phật này thọ ký, từ đây dẫn người này đến sự thọ ký
Bodhi. Khi người này đã đi từ xa lại, đi trên đại thừa trong thời gian
lâu dài và những thiện căn đã là thành thục thì Bồ Tát này mới có
được trí tuệ hoàn hảo này để mà xem, ca ngợi, thờ phụng, lắng nghe
và hiểu rõ. Không cần phải nói nếu người này không chỉ nghe mà còn
tiếp nhận, giữ trong trí, dạy, học, lưu truyền, giải thích nghĩa và
tụng trí tuệ hoàn hảo
Phật: Đúng như vậy, Sariputra, đúng như ông đã nói.
5 Ví dụ so sánh cho sự đến gần Bodhi Vô thượng
Sariputra: Chợt con nghĩ đến những so sánh ví dụ sau, thưa Ngài.
Cũng như chúng ta biết chắc được người thuộc Bồ Tát thừa thì khi
người này nằm mơ thấy đang ngồi ở Bodhi đạo tràng, thì đã đến gần
tới Vô thượng Bodhi…cũng như vậy, chúng ta biết những người đã thỏa
mãn những điều kiện trên thì đã đi trên Bồ Tát thừa trong thời gian
dài, đã đến từ xa tới, và đã đến gần sự thọ ký. Chúng ta biết
chắc rằng Phật sẽ thọ ký cho người này được Bodhi. Vì Bồ Tát đã đi
trên con đường Bồ Tát từ lâu dài, và thiện căn đã thành thục thì
mới có được trí tuệ hoàn hảo này, chỉ nghe thôi cũng vậy. Không cần
phải nói nếu người này giữ luôn trong trí,vv hay lặp lại. Vì những
người có nhiều nghiệp, dễ đưa đến sự phỉ báng pháp thì trở nên
chán ghét trí tuệ hoàn hảo này, và đi chệch hướng pháp này. Vì có
nhiều nghiệp này mà người này không gieo trồng thiện căn, không thỏa
mãn hay tin tưởng giới hạn sự thật này (reality limit). Nhưng những
người cảm thấy thích thú và tin tưởng pháp này thì chính là những
người đã gieo trồng thiện căn, gieo trồng một cách thiện xảo.
Người đi ra khỏi rừng rậm âm u, 100 dặm dài, 1000 dặm lớn thì
có thể thấy những dấu hiệu biểu hiện rằng thành phố đã gần nơi đây,
hay những nơi có người như chăn bò, chăn gia súc, hay đương biên giới,
vườn. Từ những dấu hiệu này người này biết đã đến gần tới nơi đông
đúc. Người này cảm thấy vui vẻ, và không bị lo sợ bởi nạn giặc
cướp. Cũng như vậy Bồ Tát nào thấy có sự hoàn hảo thâm sâu này xuất
hiện thì biết là người này đã gần đến Vô thượng Bodhi, và không bao
lâu sau sẽ được thọ ký. Người này không sợ phải rơi vào địa vị Thanh
Văn hay Duyên Giác. Vì dấu hiệu này đã hiện trước người này, ví dụ
như người này đã cố được trí tuệ hoàn hảo để mà nhìn thấy, ca
tụng, thờ cúng, lắng nghe hay hiểu.
Phật: Đúng như vậy, Sariputra. Ông cũng nên nói thêm về điều
này, vì những gì ông nói và sắp nói đều cũng là nhờ thần lực của
Phật.
Sariputra: Một người muốn thấy đại dương thì sẽ tìm cách đi
đến đó. Khi người này thấy cây, hay dấu hiệu của cây, núi hay dấu
hiệu của núi thì người này biết đại dương còn xa. Nhưng khi người
này không thấy cây hay núi thì người này biết đại dương đã gần kề
nơi đây. Vì đại dương này dần dần lài xuống thấp (slope away), và
chung quanh nó thì không có cây hay núi. Vì vậy, mặc dù người này
không thây đại dương ở trước mắt, nhưng người này biết chắc là đại
dương đang gần kề, và không xa nơi đây. Cũng giống như vậy đối với Bồ
Tát nghe được trí tuệ hoàn hảo này. Ta biết rằng mặc dù người này không mặt đối mặt diện
kiến với Phật, và được thọ ký Bodhi nhưng người này đã đến gần với
sự hoàn hảo. Vì người này có được trí tuệ hoàn hảo để mà chiêm
ngưỡng, ca tụng, thờ phụng, nghe hay hiểu.
Cũng giống như vậy, thưa Ngài, cũng như lá năm trước sắp tàn
lụi hết, người này có thể thấy chồi mọc lên từ cây. Những người
Jambudvipa thì vui mừng, vì khi thấy những dấu hiệu này ở trong rừng
cây thì người này biết sắp có hoa và quả, vì hộ thấy những dấu
hiệu này từ cây. Cũng như vậy thưa Ngài, chúng ta biết được là Bồ
Tát, khi nhận được trí tuệ hoàn hảo, khi trí tuệ hoàn hảo này xuất
hiện cho người này thì người này đã thành thục thiện căn từ lâu
rồi. Chính vì người này có thiện căn nên trí tuệ hoàn hảo mới ngả
xuống cho người này. Vì vậy chư thiên thần nào thấy Phật quá khứ
thì đều vui mừng, hớn hở và thích thú, vì người này biết không lâu
sau Bồ Tát này sẽ được thọ ký Bodhi, vì với Bồ Tát rong quá khứ
thì đây là dấu hiệu để họ nhận được sự thọ ký Bodhi
Cũng như vậy, thưa Ngài, người phụ nữ có mang với dạ nặng nề,
luôn mệt mỏi và quằn quại (twisted), người này không đi lại nhiều, ăn
ít, ít thấy thoải mái, ít nói, có ít sức lực nhưng nhiều đau đớn,
thường kêu la và tránh những nơi mình thường ở. Người này biết đang
chịu phải những điều không dễ chịu này là vì đã đi theo những quyết
định và ý nghĩ không sáng suốt trong quá khứ, thực hành theo, phát
triển, tạo ra nhiều việc như vây. Khi những dấu hiệu này xuất hiện
thì người ta biết rằng cô ta sắp sinh nở. Cũng như vậy, khi Bồ tát
thấy có trí tuệ hoàn hảo này xuất hiện để mà mà chiêm ngưỡng, ca
tụng, thờ phụng, nghe hay hiểu, và khi nghe được điều này, người này
vui mừng, thích thú, và quyết tâm ước muốn rèn luyện theo trí tuệ
hoàn hảo thì ta biết người này không bao lâu sẽ đạt được Bodhi
Vì sao Bồ Tát được Phật thương quý (favoured)
Subhuti: Thật là tuyệt vời khi thấy Phật đã quan sát những Bồ
Tát này, bảo vệ và thương quý họ.
Phật: Bởi vì những vị Bồ Tát này thực hành vì lợi ích và
sự vui sướng của nghiều người, vì lòng từ bi cho thế giới. Vì hạnh
phúc và lòng từ bi đối với chư thiên và nhân loại, cho một số lớn
người mà người này muốn đạt được Bodhi, và sau đó là giảng dạy kinh
pháp tối thượng.
Thái độ đúng đắn đối với trí tuệ hoàn hảo
Subhuti: Làm sao để mà Bồ Tát đi theo trí tuệ hoàn hảo trở nên
ngày cang hoàn thiện?
Phật: Bồ Tát đi theo trí tuệ hoàn hảo, vì sự đi này không làm
giảm hay tăng các uẩn, và được xem là người này không xét pháp hay
không phải pháp (review). Đây là cách mà người đi theo trí tuệ hoàn
hảo trở nên ngày cang hoàn thiện.
Subhuti: Điều này thật khó nghĩ bàn
Phật: Nói cho cùng (ultimately), hình tướng thì không nghĩ bàn,
cũng như các uẩn, hay những sự vật được coi là dùng để tạo ra những
sự vật khác. Tới cùng tận thì người này không nghĩ bất cứ hay tất
cả các uẩn là không thể nghĩ bàn (unthinkable), người này đi trên trí
tuệ hoàn hảo
Sariputra: Những ai là người toàn tâm toàn ý, chú tâm chân thành
và sự hăng say thì biết được tính vắng lặng (emptiness)?
Phật: Những Bồ tát nào toàn tâm toàn ý, chú tâm chân thành và
sự hăng say trong sự thật cho đến trí tuệ hoàn hảo, thì biết, ngay
cho đến sự vắng lặng.( in verity even unto emptiness as
perfect wisdom, is merely aware, even unto emptiness.)
Sariputra: Đâu là sự rèn luyện của Bồ tát, và ý nghĩa của từ
này là gì?
Phật: Bồ Tát không tạo dựng sức mạnh (power) hay cơ sở nền
tảng (ground) (như sự tự tin), cũng không tạo Phật pháp, ngay cả sự
toàn giác cũng vậy…Vì sức mạnh (power) hay cơ sở nền tảng (ground),
Phật pháp, ngay cả sự toàn giác thì đều không thể nghĩ bàn cũng
giống như bất cứ hay tất cả pháp nào. Vì thế, như là để rèn luyện
thì Bồ tát không đi trong hay ngoài trí tuệ hoàn hảo. Vì không có lý
do thực nào mà 1 người được gọi là Bồ Tát, vì thế đây chính là ý
nghĩa của từ “rèn luyện”
Những chướng ngại đối với trí tuệ hoàn hảo
Subhuti: Sở học, sự nhận thức và hiểu nghĩa thật là sâu xa khi
trí tuệ hoàn hảo được diễn tả như vậy. Đây đúng là một kho tang châu
báu, kho tàng thuần khiết cũng như không gian thì thuần khiết. Quả
thật là không có gì ngạc nhiên khi có nhiều cản trở cho sự đọc,
tụng, viết, học, suy nghĩ hay hiểu trí tuệ hoàn hảo như vậy
Phật: Có nhiều cản trở cho người đọc, tụng,vv trí tuệ hoàn
hảo, nó luôn luôn tồn tại. Bởi vì Ác Ma là người tạo ra nhiều khó
khăn, cũng giống như ở đây có người vội vàng sao chép ra. Nếu người
này có 1 tháng, 2 tháng hay 3 tháng, người này vẫn nên tiếp tục sự
viết chép. Nếu có 1 năm hay hơn nữa thì người này cũng nên tiếp tục
viết chép trí tuệ hoàn hảo (vì trong thời gian này có thể có gián
đoạn) Sự thật là, đối với những gì quý giá thì những việc khó
khăn cản trở luôn hiện ra.
Subhuti: Thưa Ngài, ngay khi trí tuệ hoàn hảo được học tập thì
Ác Ma luôn là người ham muốn, tận lực tìm cách gây khó dễ
Phật: Tuy vậy nó không thể tạo ra những trở ngại đáng kể nào
đối với Bồ Tát đã chú tâm toàn lực vào công việc của mình
Bồ Tát hỗ trợ bởi Phật.
Sariputra: Thưa Ngài, ác Ma luôn tìm cách gây trở ngại cho sự
học tập trí tuệ hoàn hảo, vậy làm sao mọi người học tập được, và
bằng thần lực của ai thì người này có thể tiến được trên con đường
này?
Phật: Bằng thần lực của Phật, người này học, luyện tập trong
sự thể như vậy (thusness), đây chính là tính tự nhiên của Phật, bảo
hộ, yểm trợ gìn giữ vô số thế giới hệ, quan sát và gìn giữ những
ai học theo trí tuệ hoàn hảo. Phật quan sát và trợ giúp những người
như vầy. Không ai có thể gây chướng ngại cho những ai được Phật quan sát
và suy nghĩ đến.
Sariputra: Vậy có phải chính thần lực này của Phật là điều
mà Bồ Tát rèn luyện học hỏi như là trí tuệ hoàn hảo, và tinh tấn
rèn luyện trong hay chính “sự thể như vậy”?
Phật: Đúng như vậy, Sariputra. Chính vì điều này, những người
này được Phật biết tới, được Phật nhìn thấy và bảo vệ, và Phật
nhìn những người này bằng mắt Phật. Khi những Bồ Tát này học trí
tuệ hoàn hảo và tiếp tục rèn luyện trong sự thể như vậy, trụ như
vậy mà không có cơ sở (ground) đối với các quyết định tới sự toàn
giác. Nhưng nếu chỉ học trí tuệ hoàn hảo mà không luyện tập tinh
tiến trên sự thể như vậy, không đứng vững trên sự như vậy (suchness),
những người này cũng được các Phật biết đến, được hỗ trợ và nhìn
thấy bởi Phật, và Phật nhìn thấy những người này bằng Phật nhãn.
Chỉ học trí tuệ hoàn hảo này lien tục thôi thì sự hoạt động trí
não cũng rất có lợi cho những người này, một điều lợi lớn, thành
quả và sự đền thưởng lớn. Vì, để nhắm tới sự thật tuyệt đối tối
hậu, trí tuệ hoàn hảo được đặt ra để giúp mọi người xuyên suốt
được tính chất tự nhiên của Pháp là gì.
Dự đoán về sự lưu truyền của trí tuệ hoàn hảo
Hơn thế nữa, những Kinh tuân theo (in accord) 6 sự hoàn hảo này
tiếp tục như vậy ngay sau khi sự nhập Nirvana của Phật, xuất hiện ở
hướng Nam. Và cũng giống như hướng Nam, trí tuệ hoàn hảo tiếp tục
được lan đến hướng Đông, và tới hướng Bắc và hướng Tây, vào bất cứ
thời điểm nào thì Pháp Vinaya này cũng giống như kem mới làm, và là
luật tốt, dung hòa như Pháp thân (dharmakaya). Có cùng vị với, như và
bởi những người dụng công đúng, học, cống hiến, hồi hướng và gìn
giữ trí tuệ hoàn hảo là với, như và bởi Phật (with, as and by
Tathagatas), những người này được Phật chấp thuận, gìn giữ và nhìn
thấy bằng mắt Phật.
Sariputra: Vậy trí tuệ hoàn hảo, vào thời điểm cuối cùng,
thời gian cuối cùng (last period) cũng được lưu truyền rộng rãi ở
phương Bắc, ở phía Bắc thế giới này chăng?
Phật: Ngay cả phương Bắc, những ai dụng công đúng, tìm sâu vào
trí tuệ hoàn hảo thì ngay cả khi những người này chỉ nghe được trí
tuệ hoàn hảo thì liền lưu truyền mọi nơi. Những Bồ Tát biết và học
trí tuệ hoàn hảo và hơn nữa thì đã đi trên thừa này từ lâu.
Miêu tả Bồ Tát học trí tuệ hoàn hảo
Sariputra: Những Bồ Tát ở phương Bắc học trí tuệ hoàn hảo thì
có nhiều chăng?
Phật: Có rất nhiều Bồ Tát ở phương Bắc. Nhưng chỉ có một số
ít người học sâu vào trí tuệ hoàn hảo, và khi trí tuệ hoàn hảo
đang được diễn giảng thì những người này không bị thoái chí. Những
người theo, đặt câu hỏi và thờ phụng Phật- đi cũng như đến- là những
người đã đi trên thừa lâu dài. Những người này thì hoàn thiện và
làm ích lợi, làm tốt hơn mọi người. Những người này như vậy, và
tất cả cũng vậy (As such these are, as is all). Sự nhận thức và biết
được như là sự tự tồn tại tự phát, ban sơ và trên cả thuần khiết (Mere
awareness and bare realization are these as spontaneously self-existent,
primordial and beyond even purity itself). Phật nói
về sự toàn giác, để đạt được sự toàn giác và đến được sự toàn
giác cho và như những người này. Ngay cả khi những người này thoát
khỏi kiếp sinh này (present birth), những suy nghĩ, cho đến toàn giác
và trí tuệ hoàn hảo, được tiếp tục nhờ nghiệp (tánh tập quán).
Và những người này bàn luận về mẩu đối thoại này, nói về và liên
quan đến Bodhi tối thượng. Trí tuệ hoàn hảo và sự toàn giác liên hệ
với những người này như vậy. Những người này không thể bị cản trở
và làm chệch hướng bởi Ma, không cần phả nói đến những người khác,
cho dù họ có dùng tâm lực, sức mạnh hay thần chú. Cũng giống như kim
cương xác định được (resolve), những người này không thể bị cản trở
và họ tiến đến Bodhi. Nhờ nghe trí tuệ hoàn hảo này mà thiện nam
thiện nữ có được sự nhiệt tình hào hứng, sự tự tin rất lớn và cả
niềm tin không thể lay động. Những người này trồng căn lành vì mọi
người. Đối trước Phật, những người này nguyện: Chúng con đi trên Bồ
Tát đạo để tiết lộ cho mọi người đương đến Bodhi, đúng vậy, vô số Na
do tha ức triệu chúng sinh. Chúng con sẽ tiết lộ Bodhi cho những người
này, khuyến khích và tiếp sức, giúp họ tiến đến và thành lập
những việc như vậy, giúp họ đến với những hành động và sự cố gắng
không thoái chuyển.” Và vì những suy nghĩ này cũng là suy nghĩ của
ta, những thiện nam và thiện nữ này nguyện như vậy, thuộc Bồ Tát
thừa. Khi những người này củng cố được niềm tin như vậy thì họ sinh
ở quốc độ của Phật, và diện kiến trước mặt Thế Tôn, Phật đã diễn
giải Pháp trí tuệ hoàn hảo thâm sâu cho họ nghe. Ở nhiều cõi Phật,
những người này giúp mọi người nhận thức được cái nhìn này bằng
cách xóa bỏ những chướng ngại tới sự nhận thức đầy đủ, và cũng
giúp những người này trên con đường Bodhi cho tất cả chúng sinh
Sariputra: Thật là tuyệt vời khi nghĩ rằng các Pháp quá khứ,
vị lai và hiện tại đều vắng lặng. Phật không trải nghiệm sự không
biết (Tathagatas do not experience such as unaware), không có pháp nào là
không được nghĩ ra, nhưng trên cả sự thuần khiết, biết như không gian. Sự
hành động (conduct) thì không phải là một cái gì đó, ở bất cứ nơi
đâu, hay có ai không biết. Những Phật như vậy biết (cognize) được hành
động của những Bồ Tát rất mực mong muốn Bodhi, mặc dù ý muốn này
rất nhỏ bé, vì họ cũng bỏ công sức, mặc dù rất nhỏ. Tuy vậy thưa
Ngài, trong số những thiện nam thiện nữ, những ai học kỹ càng trí
tuệ hoàn hảo, và cố gắng vì 6 ba la mật và vì lợi ích của mọi
người, tìm kiếm, nỗ lực rất nhiều để đạt được trí tuệ hoàn hảo,
có một số vẫn không đạt được, trong khi đó có người đạt được trí
tuệ hoàn hảo mặc dù không cố gắng nhiều. Thưa Ngài, vì sao lại như
vậy?
Phật: Đúng như vậy, Sariputra, trong quá khứ, vị lai, hiện tại,
pháp là không. Phật không nhìn thấy, nghe hay cảm nhận được những việc
không có thức (feel such as unaware). Điều này càng đúng đối với những
Bồ Tát tuy tìm kiếm trí tuệ hoàn hảo, nhưng vẫn không có được. Có
người tìm được mặc dù không phải tìm kiếm gì cả. Đây là những Bồ
Tát trong quá khứ đã tìm kiếm nỗ lực săn lùng trí tuệ hoàn hảo
này. Chính vì sự nỗ lực và động lực của thiện căn này mà những
người này biết được trí tuệ hoàn hảo, mặc dù hiện tại người này
không tìm kiếm trí tuệ hoàn hảo. Và cũng như vậy những Kinh pháp
khác nữa, vốn cũng tuyên dương trí tuệ hoàn hảo, tự tìm đến người
này. Đây là một sự thực, Sariputra, Bồ Tát tìm kiếm trí tuệ hoàn
hảo, sau 1 hay 2 lần sanh thig sẽ nhận thức được trí tuệ hoàn hảo.
Cũng như vậy, những Kinh pháp khác đi theo trí tuệ hoàn hảo cũng tự
tìm đến người này.
Sariputra: Vậy chỉ có những Kinh pháp hợp với (in accord) 6 ba la
mật thì mới đến với người này chăng, hay là còn những Kinh khác nữa
Phật: Tại đây những Kinh thâm sâu khác cũng đến với người thiện
nam thiện nữ này. Một quy luật là Bồ Tát nào chỉ cho người khác
biết trí tuệ hoàn hảo này trên con đường đến Bodhi, giúp đỡ những
người này trên con đường nói trên, giúp họ không thoái chuyển, và
những người cũng rèn luyện như vậy, sau khi người này tái sinh thì
những Kinh pháp sâu xa này cũng tự đến với người này, những pháp
vốn hợp với sự không nắm bắt của cơ sở, hợp với tính vắng lặng,
cũng hợp với 6 ba la mật
Chương XI
Những hành động của Ma
Một số hành động của Ma
Subhuti: Phật đã nói về những đức hạnh của những thiện nam nữ
như trên. Vậy có trở ngại nào đến với những người này chăng?
Phật: Có nhiều trở ngại, và những trở ngại này được xem như
là của Ma làm
Subhuti: Vậy những trở ngại này là gì?
Phật: Những Bồ Tát đã đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo từ
lâu, hoặc hiểu được sau một thời gian dài, hay khi vừa hiểu được thì
tự nhiên bị nhiễu loạn (disturbed). Hay có người nào khi viết mà
ngáp, cười, hay cười mỉa mai (sneer), hay học nhưng tâm thức không tịnh.
Hay khi viết mà nghĩ đến việc khác, không chuyên tâm. Hay người này
viết để chế giễu người khác, hay không tập trung. Sự viết này thì
là bất thuận lẫn nhau (this writing is in mutual discord). “Chúng tôi
không trụ vững ở nơi đây, chúng tôi không vui thích khi nghe điều
này”…Khi nói như vậy xong những người này bỏ đi. Vì những suy nghĩ
này có từ nguồn gốc không tin tưởng pháp, những người này suy nghĩ
“Tôi không được định là để đạt được Bodhi (predestined)…và rồi đứng
dậy bỏ đi. Hay, người này thấy và nghĩ rằng cuốn sách này không nói
đến tên và nơi sinh của họ, không nhắc tới tên hay bộ tộc của họ, cha
mẹ, gia đình, những người này liền quyết định không nghe trí tuệ
hoàn hảo, và rồi bỏ đi. Mỗi khi người này bỏ đi là lập đi lập lại
bấy nhiêu kiếp người này phải chịu sinh tử, nhiều như số lần họ
nghĩ như vậy, và ngay cả lúc này, trong lúc ở những kiếp này, người
này có thể cố gắng lại từ đầu. Tất cả là vì lý do gì? Bồ Tát
không muốn nghe sâu về trí tuệ hoàn hảo thì không thể đến được với
tâm linh của Pháp, bất luận là thế giới hay siêu thế giới.
Trí tuệ hoàn hảo và Kinh của Thanh Văn (Đệ tử)
Hơn thế nữa, một số người có hay không nhận ra rằng mình có
thuộc thừa Bồ Tát không, và một số người bỏ cuộc với trí tuệ hoàn
hảo…chính sự thấu hiểu vượt lên trên kiến thức, vốn đã nuôi dưỡng
sự biết tất cả. Chúng ta có thể quyết định tìm đến với Kinh khác,
nhưng sự chỉ dạy và hiểu được thì không tiết lộ sự biết đồng nhất
(uniform awareness) cho sự nuôi dưỡng của chúng ta. Chính đây là sự
biết thuần khiết (pure cognition) có chung của vô số chúng sinh, vô
cùng hiếm để gặp và hiểu. Thực sự là hiếm như con rùa, trong một
kiếp trôi giữa biển vô tận, biển này, theo dòng biển, đưa nó đến bến
bờ nghỉ ngơi và nuôi dưỡng. Thực vậy Subhuti, hiếm đến như vậy.
Đa số chúng ta không học và hiểu trí tuệ hoàn hảo, và vì vậy
không muốn rèn luyện trong những việc thuộc thế giới và lĩnh vực tâm
linh của pháp, chúng ta cũng không tự mở mang mình với pháp này. Vì
không học và hiểu trí tuệ hoàn hảo mà chúng ta không thể biết được
về việc thế giới (worldly) hay tâm linh phổ quát của pháp.
Mặc dù tất cả đều có được tiềm năng giống nhau này, một số
người bỏ chúng đi và bỏ luôn cả trí tuệ hoàn hảo, vốn chính là
cội gốc để hiểu được việc thuộc thế giới này và tâm linh phổ quát
của pháp, và thay vào đó lại tìm sự hỗ trợ từ một cành nhánh
khác. Cũng giống như con chó chê đi thức ăn mà chủ nó đưa, lại tìm
đến một ngụm nước tư người hầu, cũng như vậy, chúng sinh được hiểu
tiềm ẩn là thuộc thừa Bồ Tát lại bỏ đi trí tuệ hoàn hảo này, vốn
là nguồn gốc để biết được tất cả, nhưng lại tìm lấy cái trung tâm,
lõi, tìm sự tăng trưởng, quả vị Phật, Thanh Văn hay Duyên Giác thừa,
cũng giống như cành và lá. Đây cũng được xem như là việc Ma làm.
Lần nữa, tất cả chúng sinh đều có năng lực như nhau nhưng không
nhận biết được sự tập trung nỗ lực đúng đắn để mà áp dụng điều
này, để bằng cách này mà nuôi dưỡng sự biết toàn giác. Tuy vậy đa
số chúng ta vẫn, trong một thời gian nào đó, bỏ đi, chê, hay đơn giản
là quên mất trí tuệ hoàn hảo này, và lại học những Kinh khác thuộc
Thanh Văn hay Duyên Giác thừa, cũng giống như nhánh và lá, nghĩ rằng
những Kinh này hơn trí tuệ hoàn hảo. Bồ Tát thì không luyện tập
giống như những người thuộc Thanh Văn hay Duyên Giác thừa.
Vậy Thanh Văn hay Duyên Giác rèn luyện như thế nào? Tôi quyết
định như vầy, tôi đi theo thầy này và từ kiến thức này, tôi đi dạy
người khác những gì tôi biết, và chính nhờ điều này mà tôi đã
thuần phục một chúng sinh, đem lại thanh bình cho một người, một
người tôi đã dẫn đến Nirvana cuối cùng. Chính vì vậy tôi rèn luyện
và tu tập như vậy là để gieo trồng căn lành nhằm thuần hóa chính
tôi, đem lại thanh bình cho tôi, để đưa tôi đến Nirvana.
Bồ Tát chúng ta luyện tập khác, mặc khác, chúng ta luyện như
vầy: Để lợi ích vô số chúng sinh như một, và để đến được và biết
được sự thể như vậy (suchness) và diễn nói cho vô số người. Quá
trình trí tuệ hoàn hảo và Bồ Tát thừa được chỉ ra như vậy, cho
thấy như vậy và được chứng minh là mọi người đều có nó, lúc này
tôi sẽ dọn đường cho sự giải thoát vòng luân hồi vô số chúng sinh và
chỉ lộ Nirvana. Cũng như vậy, nếu xu hướng cho phép, nghiệp lực bị
loại trừ…dọn hết mọi trở ngại đến giới hạn của sự thật, bất cứ
ai cũng sẽ được tiết lộ Bodhi và tiến tới parinirvana…toàn bộ chúng
sinh trong vũ trụ. Với ý định này Bồ Tát rèn luyện trong nhiều thực
tập để gieo trồng căn lành. Nhưng người này không khoe khoang…Vì tưởng
tượng như vầy, nếu có người không thấy voi, lại muốn biết được màu
và hình thù của nó. Trong bóng tối người này sờ và kiểm xét chân
của voi, và quyết đinh là màu sắc và hình dạng của nó có thể biết
qua bàn chân của nó. Vậy đây có phải là một việc thông minh không?
Subhuti: Không thưa Ngài.
Phật: Điều này cũng đúng cho người nào thuộc Bồ Tát thừa mà
không hiểu trí tuệ hoàn hảo này mà không đặt câu hỏi.
Tuy vậy, khi muốn có được Bodhi, người này chê trí tuệ hoàn
hảo và thích học những Kinh dành cho Thanh Văn hay Duyên Giác. Đây cũng
được xem như là hành động của Ma. Cũng như người muốn tìm ngọc nhưng
lại không tìm trong Đại dương, lại tìm trong vũng nước của dấu chân
bò, và lại nghĩ là toàn bộ biển cả nằm trong dấu chân bò, vậy
người này có dùng hết khả năng và trí tuệ của mình không?
Subhuti: Không, thưa Ngài!
Phật: Cũng như vậy, điều này đúng với những người nguyện đi
trên Bồ Tát thừa…tuy có tiếp nhận được trí tuệ hoàn hảo, nhưng lại
không liên tục tiếp xúc và tham khảo trí tuệ hoàn hảo, không ngụp
lặn trong mọi lúc, mọi lúc càng sâu hơn, như là phương tiện đến với
sự hoàn hảo của trí tuệ vô tận, vô biên, vô thời gian.
Mặc dù vậy, chúng ta vẫn thích Kinh dành cho Thanh Văn Duyên
Giác, qua việc ủng hộ sự trú ở những hoạt động tập trung nhưng lãnh
đạm, nghĩa là ít hoạt động (concentrated but unconcerned inactivity), và
điều này thì không thích hợp cho Bồ Tát thừa, chỉ là sự thuần hóa,
xoa dịu và Nirvana của một mình mình. Quyết định ở ẩn, theo như các
Thánh quả, từ Dự Lưu đến Duyên Giác, để vào Nirvana sau khi đã giải
thoát hết các lậu trong cuộc sống này, không còn bám víu nữa. Làm
như vậy là theo Thanh Văn hay Duyên Giác thừa.
Bồ Tát thì không tập trung suy nghĩ vào những việc như vậy. Vì
khi đã theo thừa này, ta đã mặc áo giáp vĩ đại. Suy nghĩ của ta
không chỉ tập trung đơn độc đến sự lãnh đạm, không quan tâm. Vì chúng
ta cô đặc, tập trung như kim cương, người dẫn đường của thế giới,
người đề xướng hạnh phúc của thế giới. Ở đây, chúng ta liên tục và
không gián đoạn rèn luyện trong và như 6 ba la mật. Nhưng những người
nguyện theo Bồ Tát thừa mà không biết và không hiểu Kinh thuận theo 6
ba la mật thì chê bỏ trí tuệ hoàn hảo, và thích những Kinh dành cho
Thanh Văn hay Duyên Giác- căn lành của chúng tôi còn chưa thành thục,
trí tuệ vẫn còn nhiều điều chưa thông, thiếu giá trị thâm sâu, sự
quyết tâm vẫn còn yếu. Chúng ta có thể xem như một người xây nhà, hay
người học việc, người này muốn xây một tòa lâu đài lớn bằng
Vaijayanta, nhưng lại đo bằng xe mặt trời hay mặt trăng (car of sun?).
Điều này cũng giống như người từ bỏ trí tuệ hoàn hảo và tìm kiếm
sự toàn giác qua những Kinh dành cho Thanh Văn hay Duyên Giác, những
Kinh để thuần hóa, xoa dịu và đưa đến Nirvana cho một mình cá thể
riêng biệt. Nếu ta tìm những Kinh như vậy và rèn luyện với ý định
như vậy thì những Bồ Tát này có dùng nhiều trí tuệ chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Đây cũng được xem như là hành động của Ma. Sự thực không
thể chối cãi là những việc này chúng ta tự làm cho mình bằng cách
quay vào trong bản thân (turn within) và thỏa mãn với những gì được
hiểu biết sai lệch là điều cần thiết cho riêng mình, sự yên ổn của
sự thỏa mãn cho cá nhân đơn lẻ, và mặc dù khoác chiếc ào của khổ
hạnh, nhưng chỉ có được mặt nạ khiêm nhường…và làm hiểu sai trí
tuệ, gượng gạo trí tuệ
Vậy giả sử có người thấy một vị vua, và xem xét người này
từ những dấu hiệu như là nước da, hình dáng, vẻ đẹp và oai nghiêm.
Rồi người này cũng làm như vậy đối với 1 vị tướng.Nếu người này
không thấy được sự khác biệt (make a distinction), và rồi người này
nói với vị tướng, vị vua thì có nước da, hình dáng, vẻ đẹp và oai
nghiêm như vầy, nếu người này muốn so ngang nhau giữa vị vua và vị
tướng, thì đây có phải là một việc thông minh không?
Subhuti: Không thưa ngài!
Phật: Điều này cũng đúng với người đã nguyện đi theo Bồ Tát
thừa mà tương lai lại chối bỏ trí tuệ hoàn hảo này, và tìm sự
toàn giác trong nhưng Kinh thuộc Thanh Văn hay Duyên Giác thừa. Đây cũng
là việc Ma làm. Mặc khác, ta dĩ nhiên không nói, “Bồ Tát, hãy tìm
kiếm sự toàn giác qua những Kinh dành cho Thanh Văn hay Duyên Giác”. Bồ
Tát thì không tiến đến sự diễn đạt về Bodhi Vô thượng nếu người này
không rèn luyện tại những gì Phật đã nói trong Trí tuệ hoàn hảo như
là thiện xảo phương tiện của Bồ Tát này. Bởi vì trí biết toàn thể
của Bồ Tát thì không được diễn đạt trong bất cứ Kinh nào khác.
Lúc này, Subhuti, Phật thấy sự lợi ích của Trí tuệ hoàn hảo,
bằng nhiều cách khác nhau Phật chỉ bày cho Bồ Tát, giới thiệu người
này và khuyến khích họ, làm cho những người này hứng thú và vui
thích, ủy thác cho những người này, biết rằng họ sẽ không thoái
chuyển trước Vô thượng Bodhi
Subhuti, vậy những Bồ Tát này có thông minh lắm không, nếu như
đã được không thoái chuyển trước thừa vĩ đại này, laị muốn bỏ đi,
quay đi và muốn 1 thừa thấp hơn?
Subhuti: Không thưa Ngài!
Phật: Nếu một người đang đói lại từ chối cao lương mỹ vị, lại
thích thức ăn hư nghèo, vậy người này có dùng hết trí tuệ của mình
chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài!
Phật: Cũng như vậy trong tương lai sẽ có Bồ Tát rời bỏ Trí
tuệ hoàn hảo này, và thích những Kinh thuộc Thanh Văn và Duyên Giác,
và lại tìm kiếm trí tuệ toàn giác từ những Kinh dành cho Thanh Văn
Duyên Giác. Vậy người này có dùng hết trí tuệ của mình chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài!
Phật: Cũng vậy, đây cũng là việc Ma làm. Một người có một
viên ngọc vô giá mà lại cho nó là bằng giá trị với một viên khác
có giá trị thấp hơn. Vậy người này có dùng hết trí tuệ của mình
chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài!
Phật: Cũng như vậy trong tương lai sẽ có người thuộc Bồ Tát
thừa, mặc dù đã có được viên ngọc sáng chói của trí tuệ hoàn hảo,
nhưng lại nghĩ nó bằng với Thanh Văn và Duyên Giác thừa, và tìm kiếm
sự toàn giác trong cấp độ Thanh Văn và Duyên Giác. Vậy người này có
dùng hết trí tuệ của mình chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài!
Phật: Cũng vậy, đây cũng là việc Ma làm.
Những việc Ma làm
Hơn thế nữa, Subhuti, khi trí tuệ hoàn hảo đang được nói đến,
diễn tả, giải thích, học hỏi, tụng, lặp lại, hay chỉ viết ra thôi,
có nhiều cái nhìn sâu sắc đến dồn dập, và làm cho tâm thức bị rối
loạn, đây cũng là việc Ma làm
Subhuti: Vậy có thể nào viết chép trí tuệ hoàn hảo chăng?
Phật: Không, Subhuti. Đây cũng được xem như là hành động của Ma
khi mà người này viết trí tuệ hoàn hảo, người này nghĩ rằng đây
chính là trí tuệ hoàn hảo được viết xuống, hay không phải trí tuệ
hoàn hảo được viết xuống, hay chấp nhặt vào ngôn từ của trí tuệ
hoàn hảo, hay những gì không phải trong ngôn từ
Hơn thế nữa, Subhuti, khi viết trí tuệ hoàn hảo thì trong đầu
chúng ta suy nghĩ nhiều điều: Cung điện, làng, thành thị, quốc gia,
quận, thành phố hoàng gia, vườn, thầy giáo, truyện, kẻ cướp, nơi
tắm, đường lộ, cáng, những việc vui, những việc buồn, đàn bà, đàn
ông, vô giới tính, những trường hợp không tiện, cha, mẹ, anh, chị, bạn
bè, họ hàng bên mẹ, đồng hương, vợ cả, con trai con gái, nhà cửa, đồ
ăn uống, quần áo, giường, chỗ ngồi, cách mưu sinh, trách nhiệm, những
lúc tham, sân, si, đúng thời, lúc may mắn, lúc không may, bài nhạc,
bản nhạc, điệu nhảy, thơ, vở kịch, bài luận (treatise), việc làm ăn,
truyện tiếu, nhạc kịch, buồn bã, vấn đề, và…chính chúng ta
Đây và những hành động tâm thức khác là những việc của Ma-được
xem như là được dàn dựng khi trí tuệ hoàn hảo đang được nhắc tới,
học hay đơn giản chỉ là viết xuống, và vì vậy Ma được xem như là gây
ra rắc rối và nhầm lẫn cho suy nghĩ của Bồ Tát. Bồ Tát nhận thức
được điều này, được xem là những hành động của Ma, và tránh được
bằng cách không thấy những việc này là của Ma làm (!). Hơn thế nữa,
suy nghĩ của ta còn về vua, hoàng tử, voi, ngựa, xe ngựa, quân lính. Đây
cũng được xem như là hành động của Ma. Hơn thế nữa, suy nghĩ của ta
còn về lửa, sự cám dỗ, tiền, ngô, sự giàu có. Đây cũng được xem như
hành động của Ma.
Hơn nữa Ma tiến đến Bồ Tát đang nhắc đến, giảng giải, viết
chép vv..trí tuệ hoàn hảo và đem theo những Kinh rất sâu nhưng chỉ
thuộc Thanh Văn hay Duyên Giác thừa. Chúng khuyên như vầy…hãy rèn luyện
trong những Kinh này, chép, giải nghĩa, tụng, vì từ đây xuất phát ra
sự toàn giác. Nhưng Bồ Tát thiện xảo phương tiện thì không mong muốn
những pháp này. Vì mặc dù Kinh có nói đến sự Vắng lặng, không dấu
hiệu, không ước muốn, nhưng những sự thiện xảo của Bồ Tát không được
nhắc đến, hay nói đến. Bồ Tát không khéo léo trong sự tinh chế của kiến
thức của sự phân biệt của sự biết của sự biết của phương tiện
thiện xảo, thì từ bỏ thẳng thừng trí tuệ hoàn hảo này, và tìm
kiếm sự thiện xảo trong những Kinh thuộc Thanh Văn hay Duyên Giác thừa.
Đây cũng là việc Ma làm đối với Bồ Tát.
Những mâu thuẫn giữa thầy và trò
Và nữa, đây cũng là những hành động của Ma được xem là có
khả năng phá hủy những cơ hội gặp gỡ giữa thầy và trò. Đầu tiên,
có thể trò thì hăng say và mong muốn được tiếp nhận trí tuệ hoàn
hảo, nhưng thầy thì lười biếng, không muốn diễn pháp
Hoặc thầy thì không biết mệt nỏi, và có cảm hững muốn truyền
pháp trí tuệ hoàn hảo, nhưng trò thì quá bận hay mệt mỏi. Thứ hai,
có thể là trò khá siêng năng, và mong muốn được học, giữ trong trí,
nhắc đến, thâm nhập, lưu truyền hay đơn giản chỉ là viết lại quá
trình của trí tuệ hoàn hảo này, thông minh, có trí nhớ tốt, nhưng
thầy thì đi qua một quận khác, hay không biết những điều chính, không
nhớ chi tiết hay không có học thức cao
Hoặc người thầy thì không mệt mỏi, có học thức rộng, cảm
hứng muốn nhắc đến trí tuệ hoàn hảo, nhưng trò thì đi qua một tỉnh
khác, không không biết những điều chính, không nhớ chi tiết hay không
có học thức cao. Hơn nữa, người thầy cũng có thể là người đặt nặng
chuyện vật chất, những điều lợi, danh tiếng, quần áo, trong khi người
trò là người có ít ý muốn, dễ hài lòng, và không bị ràng buộc
nhiều lắm (detached)
Hoặc là người này hoặc người kia hay cả hai đều không muốn rời
bỏ những gì quý giá. Đây cũng là một điểm gây bất đồng, khi câu hỏi
được đặt ra là rèn luyện tới trí tuệ hoàn hảo, hay sao chép, những
việc như vậy. Mặt khác, học trò cũng có thể là người tràn đầy
niềm tin, có cảm hứng ngay khi mới nghe tới quá trình trí tuệ hoàn
hảo này và sự hiểu biết về ý nghĩa như vậy, hào phóng và tự do;
nhưng người thầy thì không có niềm tin, dễ hài lòng, không ham muốn
diễn giải trí tuệ hoàn hảo.
Hoặc trò có thể có nhiều niềm tin, mong muốn nghe và hiểu ý
nghĩa, nhưng có thể là thầy, vì có trở ngại nào đó, không có những
Kinh như vậy, không thể hiểu Kinh; thì người trò sẽ mất liên lạc với
những người thầy như vầy.
Hoặc nữa, người thầy có thể muốn chỉ ra, nhưng trò thì không
nhất tâm và ngay cả không muốn nghe. Hơn thế nữa, người trò không muốn
nghe có thể vì lười biếng, bị mệt nhọc của cơ thể chi phối, nhưng
thầy thì muốn chỉ ra; hoặc ngược lại, mặc dù trò muốn nghe nhưng
thầy thì không muốn dạy vì lười biếng hay mệt nhọc cơ thể. Chính sự
bất đông này khiến cho việc viết và học trở nên khó khăn
Những mục tiêu không chính đáng
Hơn thế nữa, khi viết, hay nhắc tới trí tuệ hoàn hảo, hay đang
rèn luyện như vậy, có người tới và chê bai cuộc sống ở những cõi
thấp, như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Atula, nói rằng những cói này
thật xấu kém, những điều kiện này cũng rất tệ, hãy thôi, kết thúc
miếng vải này đi (make an end to just this length of cloth) và cứ để chúng sinh
này chịu số phận của họ. Đây cũng là những việc làm của Ma
Hoặc có người đến và ca tụng cuộc sống chư
Thiên, nói rằng: Chư thiên thật hạnh phúc, cuộc sống trên thiên đường
vui biết bao. Người này sẽ được kết qủa tốt khi chấm dứt dục vọng
ở thế giới dục vọng, và tiến đến thiền định của thế giới sắc, và
tiến đến những kết quả được biết đến nhiều ở thế giới vô sắc
Khi suy xét
cho cùng với trí tuệ thì đây không là gì cả ngoài sự tái sinh của
nỗi khổ. Phật đã nói: Ta không ca tụng sự tái sinh nào và trở thành
bất cứ gì (rebirth in becoming), vì những thứ này không lâu hơn cái
búng tay. Vì tất cả những gì có điều kiện thì không thường còn
Những gì gây ra sợ hãi thì đều không tốt. Tất
cả những gì trong Tam đồ thì đều vắng lặng. Tất cả các pháp đều
không có tự tánh. Những người có trí thì biết được tất cả đều
không có sự vĩnh hằng chính vì lý do này, đều vô thường và tệ, nhất
định bị thoái lui, lúc này những người này có thể đạt được Thánh
quả, từ Dự Lưu đến A la hán
Bây giờ, chúng ta phải cẩn thận khi nói thêm về
những thành quả (beware of meeting any further), vì thật sự chúng là
những sự thất bại, kết cục là sự thống khổ. Nhưng đối với một số
Bồ Tát thì đây là một nguồn gốc của lo lắng (vị ham sống ở chư
thiên mà quên mất Bodhi). Đây cũng là những việc mà Ma làm
Những bất đồng khác giữa thầy và trò
Hơn nữa, thầy cũng có thể là người thích sự cô đơn một
mình,trong khi trò là người thích cuộc sống cộng đồng. Ông ta nói là
sẽ cho tặng trí tuệ hoàn hảo cho những ai đến chỗ của ngài ở, nhưng
những ai không đến thì không cho. Vì ham cầu pháp nên những người này
đến chỗ của vị này ở, tuy vậy ông ta vẫn không cho cơ hội để họ học
hỏi được điều gì. Ông ta là người ham thích những thứ vật chất nhỏ
nhặt, nhưng những người này không đưa cho ông ta bất cứ thứ gì mà ông
ta quý. Ông ta đi đến đâu thì cũng thiếu thức ăn và bị vây quanh bởi
nhiều rắc rối, gặp nguy hiểm đến tính mạng. Và những người trò
biết được là nơi này thiếu thức thức ăn, nhiều nguy hiểm, và vị
thầy này sẽ nói với những thiện nam thiện nữ này: Nơi đây thiếu
thức ăn. Dĩ nhiên, tất cả các ông có thể đến nếu muốn. Nhưng tôi sợ
là khii đến các ông sẽ thất vọng, hối tiếc. Đây là việc nói ngầm
để nhằm từ chối không cho những người này đến. Những học trò này
thấy ghê tởm và xem những lời nói này là những lời từ chối, không
phải là nhã ý muốn cho. Khi cho rằng người này không muốn hiến tặng
pháp, họ không đến nơi chỗ ông ta ở.
Hơn nữa, vi thầy này có thể sống ở nơi có nhiều nguy hiểm từ
những loài gặm nhấm, từ những loài thú ăn thịt, ma quỷ. Và tuy vậy
người này cũng từ nơi này đến những nơi hoang dã hơn với thú ăn
thịt, rắn và kẻ cướp, có nhiều nạn đói và hạn hán. Khi gặp những
người học trò này thì người này nói: Các ông hãy cẩn thận, nên
biết rằng nơi đây các ông tới chính là nơi có nhiều nguy hiểm, thú
gặm nhấm, thú ăn thịt, quỷ ăn thịt, và có đầy rắn độc và kẻ cướp,
nó không có thức ăn hay nước uống nào cả. Vì thế các ông sẽ chịu
nhiều sự thống khổ”. Chính vì vậy người này thẳng thừng từ chối
bằng phương cách hiểu ngầm. Những người học trò ghê tởm và không đi với
ông ta, quay trở về.
Cuối cùng, người thầy có thể là người đặt nặng về bà con
thân thích, những người cung cấp thức ăn cho ông ta. Trong mọi thời gian
ông ta hay đi gặp họ, chính vì vậy, ông ta thường hay bận rộn như vậy,
và từ chối gặp những học sinh của mình, với lý do là tôi có người
cần phải gặp. Đây cũng là sự mâu thuẫn khi trí tuệ hoàn hảo này
được viết ra hay được học tập. Đây cũng là những việc Ma làm. Chính
vì điều này, Ma tìm cách chống phá người học, dạy hay viết trí tuệ
hoàn hảo này.
Ma được nhìn nhận như là khuyên can người khác khỏi trí tuệ
hoàn hảo
Subhuti: Thưa Ngài, đâu là lý do vì sao Ma muốn cản trở người
học chính quá trình của trí tuệ hoàn hảo này, dùng cách này hay
cách khác.
Phật: trí tuệ hoàn hảo thì là sự toàn giác không có khởi
đầu và không có kết thúc của Phật, vì vậy là nguồn gốc của sự
tận tâm của vô số Phật, chính nó giúp cho vô số chúng sinh thoát
khỏi những cấu bẩn và chướng ngại, chỉ nhờ sự tiết lộ đơn giản
này. Vì vậy, những người đã xóa bỏ cấu bẩn thì Ma không thể thâm
nhập được, và điều này làm chúng đau buồn và chán nản, và mũi tên buồn
thảm làm cho chúng khó chịu. Chính vì vậy, trong khi trí tuệ hoàn
hảo này được học và viết ra thì Ma cố gắng, cựa quậy, trong sự
hoạn nạn của mình, bỏ ra rất nhiều công sức bằng cách này hay cách
khác nhằm ngăn cản không cho học tập từ trí tuệ hoàn hảo này. Ác ma
cũng được biết như là kẻ đến với dạng của một Sramana khất thực để
nhằm gây ra sự bất đồng.
Để khuyên can thiện nam hay thiện nữ nào mới bắt đầu đi trên
thừa thì Ma sẽ nói như vầy: Đây không phải là trí tuệ hoàn hảo mà
ông tôn trọng lắng nghe. Vì nó được truyền từ Kinh của ta, được nói
tới trong Kinh của ta, đây mới chính là trí tuệ hoàn hảo. Chính vì
vậy, nó là người này hay người khác muốn gieo rắc nỗi nghi ngờ trong
tâm trí của Bồ Tát mới bước đi trên thừa, trí tuệ vẫn chưa hoàn
thiện và rộng lớn, nhưng lại chậm chạp và bị giới hạn, thường
thiếu tầm nhìn, và vẫn chưa được thọ ký. Khi những người này nghi
ngờ họ sẽ không tu học, không viết chép trí tuệ hoàn hảo. Đây cũng
là việc Ma làm. Hơn thế nữa, Ma cũng có thể giả dạng là Phật, với
nhiều tăng sĩ xung quanh, nói rằng Bồ Tát nào đi trên Pháp thâm sâu
thì là người đã nhận ra được giới hạn sự thực, và vì vậy phải
biết vui vẻ trở thành Thanh Văn và không phải là Bồ Tát, như Bồ Tát
này đã có được. Đây cũng là việc Ma làm. Subhuti, khi trí tuệ hoàn
hảo này được học và viết chép thì Ma sẽ nghĩ ra nhiều hành động
như Ta đã nói, và nhiều nữa. Những điều này thì Bồ Tát phải thấy
và tránh, không phát triển hơn. Bồ Tát có thể trả lời đối phó với
những việc này bằng sự chánh niệm, sự tự sở hữu, và tinh tấn
Sự đối kháng giữa Ma và Phật
Subhuti: Đúng như vậy, thưa Ngài, những gì quý báu thì cũng
tạo ra nhiều thù địch. Vì trí tuệ hoàn hảo thì rất tối thượng,
khó gặp, và có nhiều giá trị. Ta có thể biết rằng sẽ có nhiều
trở ngại đến với trí tuệ hoàn hảo. Khi chùn bước trước những
chướng ngại này, người này trở nên lười biếng, ta biết rằng những
người này quyết định không học và viết chép trí tuệ hoàn hảo là
những người bị Ma hoành hành, và mới bước đi trên thừa, trí tuệ thì
nhỏ và chậm chạp, có giới hạn và bị lệch lạc, và suy nghĩ của
những người này thì không hoạt động với những pháp tối cao này
Phật: Đúng như vậy, Subhuti. Mặc dù đúng là có nhiều hoạt
động của ma, sẽ có nhiều cơ quan đối kháng thế lực của Ma. Những
người quyết tâm học và chép trí tuệ hoàn hảo là những người được
thần lực Phật ảnh hưởng, được năng lực Phật gia trì, được Phật ân
sủng. Vì ở nơi đâu có Ma chống phá, gây chướng ngại thì nơi đó Phật
sẽ ra tay giúp đỡ.
Chương XII
Chỉ cho thế giới thấy (showing the world)
Trí tuệ hoàn hảo là mẹ của các Phật
Phật: Cũng như người mẹ có nhiều người con- 5, 10, hay 20, 30,
40, 50, 100 hay 1000. Khi mẹ bị bệnh thì chúng ta đều làm tất cả
những gì có thể để đừng để mẹ chết, để mẹ sống càng lâu càng
tốt, không để cho sự bất an đến với mẹ. Vì chúng ta biết rằng nhờ
có mẹ mà ta mới có sự tồn tại này, vì trong cơn đau, mẹ đã đưa ta
đến thế giới này, chỉ cho ta biết đường đi của thế giới
Chúng ta nhìn vào mẹ, đưa cho mẹ tất cả để xoa dịu sự bất ổn
và khổ sở của mẹ, bảo vệ mẹ, coi trọng mẹ và chúng ta hy cọng là
mẹ sẽ qua khỏi cơn đau- nguyên nhân chính là sự tiếp xúc với mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân hay ý, hay từ phong, nhiệt (bile), đàm, hay dịch,
hay từ côn trùng cắn, muỗi, những động vật khác, từ người hay ma, từ
những gì rơi xuống mẹ, xé làm đôi hay là va chạm mạnh mẹ.
Bằng cách này chúng tôi tôn thờ mẹ, hiến cúng tất cả những
gì giúp mẹ dịu cơn đau, để mẹ biết mẹ quý đối với chúng ta như thế
nào, trân trọng và bảo vệ mẹ, vì chúng ta biết rằng mẹ là người
đã sinh ra ta, trong cơn đau thì sinh chúng ta ra thế giới này và dạy
cho chúng ta biết về thế giới
Và cũng như vậy, các Phật giữ trí tuệ hoàn hảo này trong
trí, và nhờ thần lực của các Ngài, sự gia trì và lòng từ bi
(grace) mà chúng ta viết chép, học và lưu truyền, tụng trí tuệ hoàn
hảo này. Và những vị Phật này, cũng đang ở trong những thế giới hệ
khác, vì hạnh phúc cho tất cả, vì lòng từ bi như là sự thể giống
nhau hoàn toàn của mọi chúng sinh-những người này giữ trí tuệ hoàn
hảo trong trí, có nhiều nhiệt huyết, vì trí tuệ hoàn hảo này vẫn
vòn tồn tại, không bị phá hủy, vì những gì Ma và quyến thuộc làm
thì đều không thể ngăn cản sự diễn giảng, viết chép và rèn luyện
của trí tuệ hoàn hảo này.
Các Phật rất chú trọng và ưa thích trí tuệ hoàn hảo này,
cũng như các Phật cũng trân trọng và bảo vệ quá tring hoàn hảo này.
Trí tuệ là mẹ và là đấng sinh thành, quá trình tiến tới hoàn hảo
của người tiết lộ cho chúng ta biết sự toàn giác, sự hoàn hảo này
chỉ dạy cho chúng ta đường đi của thế giới. Vì sự hoàn hảo này mà
các Phật xuất hiện. Vì sự hoàn hảo này sinh ra, chỉ dạy và nhận
thức được sự biết thuần khiết của toàn giá, sự hoàn hảo này chỉ
cho ta biết sự như thật của thế giới. Sự toàn giác này của các
Phật hiện ra như là sự thâm sâu hoàn hảo nhất của người (mẹ).
Phật trong 3 thời gian và hơn nữa thì cũng được trí biết về
trí tuệ hoàn hảo hày. Các Phật được giáo hóa bằng trí tuệ hoàn
hảo…và giáo hóa chúng ta trong thế giới này, để cho chúng ta được
giáo hóa và chỉ dạy, và cũng làm như vậy đối với người khác. Như
vậy chúng ta đến, và đi cũng như vậy. Những tia sáng khai mở (flashes
of enlightening) và sự nhất biết thuần khiết và không bị phân biệt,
giống như sự vắng lặng tuyệt đối, tối như mực và vô biên như không gian
Làm cách nào mà Phật biết được thế giới
Subhuti: Làm thế nào mà trí tuệ hoàn hảo có thể giáo hóa
Phật ở thế giới này, và cái mà Phật gọi là thế giới nghĩa là
gì?
Phật: Phật gọi ngũ uẩn là thế giới. Thế nào là 5: Hình
tướng, cảm xúc, nhận thức, ý muốn, ý thức
Subhuti: Làm cách nào mà trí tuệ hoàn hảo của Phật có thể
thể hiện 5 uẩn, và thể hiện được điều gì?
Phật: 5 uẩn được thể hiện và nhận thức (realized) là “thế
giới” được nhờ có trí tuệ hoàn hảo của Phật, vì những thứ này
không tan vụn, và cũng không bị mất đi. Những uẩn này thì đều vắng
lặng, không có tự thể của nó, và cũng không có tự thể và sự giống
nhau và tương đồng (sameness), cũng như (inasmuch as) có thể nói được
với ý nghĩa nào của sự vắng lặng, vì vậy, nó không thể tan vụn,
và cũng không bị mất đi. Theo nghĩa này, trí tuệ hoàn hảo giáo hóa
Phật trong thế giới này. Vì sự vắng lặng không thể tan vụn, và cũng
không bị mất đi, cũng như vậy, những sự vô dấu hiệu, không ước muốn,
sự không ảnh hưởng hay tác động (unaffected), sự không sinh, không tồn
tại, và sự đầy đủ hoàn toàn của lãnh vực của Pháp.
Làm cách nào mà Phật biết được suy nghĩ của mọi chúng sinh
Hơn thế nữa, Subhuti, nhờ trí tuệ hoàn hảo này mà Phật tự
nhiên biết được vô số chúng sinh như thực. Điều này có được là nhờ
sự giải bỏ hoặc chướng. Bởi vì cùng lúc này thì có được sự đi
đến hay quay đi khỏi sự biết thuần khiết, tùy thuộc vào cách nhìn
nhận và quan hệ đối với 6 ba la mật và bát chánh đạo, chủ yếu là
nhờ ý muốn đúng đắn (intention) và hành động đúng đắn. Sau rốt thì
đỉnh điểm của sự nhận biết này trở thành toàn giác. Điều này thì
khác biệt hoàn toàn với những mẩu kiến thức có được từ những quá
trình suy nghĩ. Sự nhận thức tuyền (naked realization) này thì thuộc
về sự không có mục tiêu, phi vật thể (objectless) và cũng như những
trải nghiệm không có phân biệt của sự không tồn tại đồng nhất của
những cá thể hay sự tập hợp của cá thể bên trong một sinh vật nào. (This naked realization is of an objectless and purely
undifferentiated experience of this uniform non-existence of any individualized
or collective own-being within any sentience whatsoever)
Lại nữa, Phật tự nhiên biết được suy nghĩ và hành động của vô
số chúng sinh, vì sự “ở đây” hay bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian
nào hay bất cứ cách nào của bất kỳ chúng sinh nào thì thực sự là
không tồn tại. Thứ mà được gọi là tồn tại thì không tồn tại theo
nghĩa là một cá thể riêng biệt hay nhiều cá thể riêng biệt, hay không
phải là tổng hợp của những cá thể,
hay cũng không có cái gì là độc nhất (singular one), hay một
nhóm 2 người hay hơn nữa, và cũng không phải là một người chia ra làm
nhiều…bởi vì suy cho cùng thì, và điều này có nghĩa ngay tận bây
giờ, tất cả và bất kỳ chúng sinh nào cũng là vô tận vô biên. Và hơn
nữa, Phật, nhờ có trí tuệ hoàn hảo này mà tự biết được những suy
nghĩ chung của vô số chúng sinh như là “suy nghĩ chung”. Và làm sao mà
Phật biết được như vậy?
Điều này tự nhiên được biết đến, vì như là sự biết thuần
khiết, những suy nghĩ chung này thì được biết như là đồng với sự
tuyệt diệt, mất đi, (extinct) [ vì những gì gọi là cá thể, cũng như
được nghĩ là có một cơ sở tồn tại và có một quan điểm nào đó,
thực sự không tồn tại, và được
Phật biết đến như sự tuyệt đối vô tận. Nhưng đây không phải là điều
được nghĩ ra. Điều quan trọng là những suy nghĩ đều có được nhờ quá
trình làm sạch (absolution). Những gì gọi là suy nghĩ ở thời gian hay
thời điểm nào đó là gì mặc cho những gì ta nghĩ]
Sự tận diệt chỉ là không tận diệt, vì những gì ta nghĩ là
tận diệt thì không phải là cái gì đó để mà tận diệt, và vì vậy
nó không tận diệt. Hơn nữa, Phật biết những suy nghĩ bị mất tập
trung của chúng sinh là như chính như vậy, vì Phật biết là những sự
“tập trung trở lại” (re-occupation with any thought) đều là sự mất tập
trung, vì ngay cả những vật thể trong thế giới này, ngay cả suy nghĩ
cũng là thuộc về bên ngoài, và cũng chính là sự trở ngại
(distraction) làm ta không thấy được cái nguồn vốn không phải là nguồn
(sourceless source), những thứ này biểu hiện tự phát không thời gian
và giới hạn (sourceless-source of which these are spontaneously manifest
with neither time nor limitation). Ngay cả sự
chánh niệm cũng không thể đưa ta đến với lãnh vực của Pháp. Vì ngay
khi có sự nhận biết là “một được chia thành nhiều”…sự thật là cái
mơ tưởng rằng “một cái gì đó” có khác biệt, như là một cơ sở để
mà định dạng được tính đơn lẻ (singularity)? Vì đây không phải là thứ
gì ngoài cái đơn lẻ này (this “one”), cái này không có sự thể gì hay
sự hỗ trợ gì để mà dựa vào nhằm định dạng chính nó hay bất cứ
hiện tượng nào như là đây hay những pháp. Vậy nếu một người còn
không thể định biết được thì huống gì là nhiều người, 100 người?
Huống gì hàng ngàn người? Trăm ngàn Na do tha ức triệu người? Đây
được gọi là vô số không thể tính đoán. Chính vì vậy, trong cái nhìn
thực sự này thì là vô tận. Những cái đơn lẻ này, tất cả những cái
đơn lẻ này thì đều hoàn toàn giống nhau ở điểm đều là sự phản
chiếu trong tức khắc của những điều kiện tương qua lẫn nhau, không thể
giải thích nổi và tự phát, những sự tương quan này chỉ giống như là
được cá nhân hóa bằng những thói quen được thành lập được từ trên
cả suy nghĩ hay tri thức về quá trình “lặp lại nếu” (reification), từ
đây mà có sự “tạo ra”; đầu tiên là, (tạo ra) ngay cả tính lưỡng
(duality) được gọi là suy nghĩ (vô minh), nhằm định ra được sự tách
biệt, phân biệt của sự huyễn hóa của ngay cái nhất thể (oneness)
không tồn tại này…sự xuất hiện của một thứ gì đó, (phân biệt) với
tính chất thuần khiết của không gian vô tận/ sự biết như là nền tảng
cho bất cứ và tất cả mọi chúng sinh. Sự thể như vậy (suchness) thì
đồng thời cũng là không gian và sự nhận thức ban sơ. Đây không phải
là một cái gì đó hay là một phần của một cái gỉ đó, không phải
là nhiều cá thể hay một cá thể. Vì sự thể như vậy thì không thể
nghĩ tới và tính toán. Sự thể như vậy là chính sự thể như vậy
Mọi chúng sinh đều được hiểu (are understood),
vì như là tâm biết hết, những vị Phật này tự nhiên nhận thức rằng
sự vô tận không diệt tận của không gian cũng giống như sự vô biên không
diệt tận của tâm thức. Tâm thức
của Phật như là sự tiếp diễn vô tận (infinite continuum) thì không
được sản sinh hay trụ lại (sustained) trong bất cứ thời gian nào, không
nghĩ xuất ra (cognize) sự sản sinh hay ngừng lại, không hiến hay nhận
sự hỗ trợ nào (support). Cũng giống như không gian thì không có thể đo
lường, Pháp cũng không thể cạn kiệt. Phật biết được tâm bị chướng
ngại và lý do gây nên chướng ngại. Phật thì biết những người này
không bị chướng ngại vì những suy tưởng lệch lạc, sở dĩ chỉ là
những suy nghĩ sai, những suy nghĩ này thì không trụ lại lâu dài.
Phật biết những ý nghĩ bị chướng ngại. Phật thấy tâm thức của
những người này thì trong suốt lấp lánh như tính chất thực ban đầu
của nó. Phật cũng biết những suy nghĩ lười biếng và sự bào chữa,
nguyên nhân của nó. Phật biết rằng những ý nghĩ như vầy thì không
trụ yên tại một chỗ. Phật nhận biết được những suy nghĩ cực kỳ tập
trung, y như chính nó trước mắt. Phật biết những suy nghĩ này được
vun trồng và cố gắng để thoát khỏi ham muốn, và những suy nghĩ này
sẽ không còn phải cố gắng như vậy nữa khi mà không còn gì để mà
nắm lấy.
Phật biết rằng suy nghĩ là lậu (outflow), gây ra
nhiều thứ khác. Chính vì vậy cần nên biết những suy nghĩ này là không
có tính tự thể của nó, là những sự diễn đạt, đại diện không chính
xác của không (no-thing). Phật biết những suy nghĩ này thì cũng như
là những gì nó có vẻ giống (Tathagatas realize thought as this is
merely as this might seem) . Những người nhận thức được
thì biết rằng, vì chính là nguồn tạo nên nó không tồn tại. Cũng
giống như sự tiếp diễn (continuity) thì thuần khiết, không có thứ gì
được hay không được hướng đến, hoặc không. Phật biết những suy nghĩ
này chỉ có vẻ là nó như vậy, nhưng thật không phải là những gì
thuộc về nó, hay là nó.
Phật biết những suy nghĩ (tâm) tham lam thì không
phải là tâm như sự nhận biết vắng lặng, vì tâm không phải là tâm tham
lam. Phật biết bất cứ tâm nào đều không có sự tham lam. Những vị như
vậy thấy tâm hay suy nghĩ tham lam thì không phải là tâm tham lam, vì
những suy nghĩ hay tâm tham lam thì không tồn tại như là một sự thật
đúng đắn (true-reality), vì tâm bỏ tham thì không tham, tâm rời tham lam
cũng vậy. Phật nhận biết tự nhiên rằng tâm thì tham lam và cũng không
tham lam. Những vị như vậy nhận thức sân cũng vậy, tâm sân và không
sân, si cũng vậy, cũng là si, cũng không si mê. Phật, như là sự nhận
biết thì biết được những suy nghĩ của chúng sinh. Phật nhận thấy
rằng suy nghĩ thì không gắn kết với thế giới sắc này (appearance),
vì những suy nghĩ này không xuất hiện ở thế giới vẻ bên ngoài. Phật
biết được những suy nghĩ rộng và nhiều. Phật biết suy nghĩ thì không
tăng cũng không giảm; vì suy nghĩ không thể ra đi. Vì suy nghĩ không
thể làm như vậy được, vì suy nghĩ thì không khác với lĩnh vực của
pháp, chính vì vậy, “ở đây” (here) thì không đâu ở đây và không có gì
ngoài đây để mà xem xét, cũng vậy đối với suy nghĩ. Phật không nhận
thấy có suy nghĩ nào vĩ đại, như được xem là như vậy, cũng không
phải là thiếu đi tính vĩ đại vì không có sự vĩ đại. Những vị Phật
này biết suy nghĩ thì không đến cũng không đi, vì những sự thật nào,
như là suy nghĩ (any reality such as thought) thì không bao gồm trong hiện
tại như vậy.
Phật nhận thấy những suy nghĩ được nghĩ là vĩ
đại, chỉ là khác với suy nghĩ thường, vì tất cả đều là như nhau,
vì những suy nghĩ này không giống nhau, nhưng cũng không khác nhau, và
những suy nghĩ như vậy không tồn tại dưới hình thức cá thể riêng
biệt. Vì ở đây, những suy nghĩ được xem như là “ở đây” thì không là
suy nghĩ gì, cũng không phải khác, ngay cả sự nhận biết (awareness)
cũng không có hiện tại (present). Phật nhận biết suy nghĩ là không có
giới hạn, vì nó không dựa vào bất cứ gì. Phật nhận biết suy nghĩ
với những đặc điểm nhận dạng của suy nghĩ thì nghĩ rằng suy nghĩ
có cái riêng, cá thể tự tính, vì không có suy nghĩ nào tồn tại mà
không có những điểm nhận diện, tuy vậy bất cứ và tất cả mọi suy
nghĩ thì không có đặc điểm, những suy nghĩ này không phải tách biệt
hay cũng không phải không tách biệt như là một vật thể gì đó, hay
cũng không phải là không nhận biết
được (imperceptible), không phải ở trong hay ở ngoài tầm của 3 hay 5
loại hình. Như là sự biết và vắng lặng ban sơ, Phật nhận thấy những
suy nghĩ đối kháng như là vắng lặng, không có chỗ dựa khách quan, và
cũng không có sự tồn tại chủ quan. Phật nhận biết những suy nghĩ
đối kháng (reacting thoughts) mà không có tập trung lại (re-occupation)
như là không phải lưỡng (non-dual), không có tự thể hay những cá thể
khác để mà qua đó phản ứng. Phật nhận biết những suy nghĩ thấp nhỏ
(năng lượng) không phải là những tưởng tượng tự cao. Phật nhận biết
những tư tưởng lớn (năng lượng vô tận) chỉ là không bị cản trở, cũng
giống như suy nghĩ nhỏ nhặt nhất thì cũng không thể nắm bắt hay được
bỏ qua
Phật nhận biết những suy nghĩ không tập trung
như là bị ràng buộc bởi sự khác biệt (như suy nghĩ rằng thế giới là
thứ riêng biệt), vì những suy nghĩ như vậy không thể tổng hợp được,
vì không tập trung. Phật biết những suy nghĩ tập trung không phải
giống cũng không phải khác Pháp, vì sự mất tập trung bị tan biến,
lộ ra sự tổng hợp (synthesis), và những suy nghĩ tập trung hơn và
hiếm hơn thì kéo dài như tận không gian. Phật nhận biết những suy
nghĩ có vẻ như là không được giải thoát thì cùng lúc này cũng đã
giải thoát (emancipated), vì những sự thể này không tồn tại như là
cá thể riêng biệt. Phật nhận biết những suy nghĩ giải thoát, vì
không thể nắm lấy những suy nghĩ của quá khứ, vị lai hay hiện tại,
vì những suy nghĩ thì không có mặt ở đó (not even present). Phật biết
những suy nghĩ không thể nhận biết được (imperceptible thought) thì
không ở đây hay được nhận biết là sự thật (reality), vì chúng không
thể được nhận biết; vì ngay cả khi như vậy thì những suy nghĩ được
nhận biết là tồn tại thì không với tới được sự thật hoàn hảo, và
nó (sự thật hoàn hảo) không thể được nắm lấy- không bằng trí tuệ
nhãn, không bằng thiên nhãn, làm sao mà mắt thường thấy được, vì nó
không nằm trong tầm nhìn của những nhãn này
Hơn nữa, Phật tự nhiên biết xu hướng của chúng
sinh là nói điều tốt hay không tốt về một sự thể nào đó. Những ý
tưởng này có được là vì bị phụ thuộc vào hình tướng và các uẩn.
Làm sao mà người nào có thể nhận biết được sự phụ thuộc vào các
uẩn này của các câu nói tốt hay không tốt? Nếu chúng ta nói “Phật
tiếp tục sống sau khi diệt”, và “Phật không tiếp
tục sống sau khi nhập diệt”, và “Phật tồn tại và cũng không tồn tại
sau khi nhập diệt”, và “Phật không và cũng không phải không tồn tại
sau khi diệt”. Những câu nói này dựa vào uẩn được biết đến như
“Phật”, và những câu nói này không có cơ sở vào sự thật đúng của
Phật. Sự việc này cũng đúng cho những câu nói tương tự, như khi người
này nói: “Tự thể và thế giới thì vĩnh hằng, đây chính là sự thật,
còn lại là dối cả”. Và ngay khi những người này nói rằng tự thể
hay là thế giới đều là không vĩnh hằng, những câu nói này chỉ nhắc
tới những uẩn này. Hay tương tự, người này nói rằng thế giới và tự
thể thì vô tận, hay không vô tận, hay cùng vô tận và không vô tận, hay
không phải có giới hạn hay không giới hạn. Hoặc cuối cùng, người này
nói “đây là linh hồn, còn đây là thân thể”, hay “thể xác là một thứ,
còn thân thể là một thứ khác” Những câu nói này chỉ dựa vào các
uẩn. Chính vì nhờ trí tuệ hoàn hảo mà Phật biết những câu nói tốt
hay xấu như tính chất của chính nó. Phật biết những uẩn này thì
đông giống với sự thể thật
Chính nhờ trí tuệ hoàn hảo, là lý do mà
những câu nói tốt hay xấu này được biết theo nghĩa thực của nó.
Chính vì vậy Phật tiết lộ sự biết sự thể thật của Phật, cũng như
các uẩn, như sự thể thật của những câu nói tốt xấu. Và chính đây
là sự thể thật của các uẩn, cũng như sự thể thật của thế giới.
Cũng như Phật nói như vầy…Những 5
uẩn này đều được xem như là thế giới. Thế nên, Subhuti, sự thể
của uẩn là vậy, sự thể của thế giới là vậy, và vì đây là sự thể
thật của các uẩn, sự thể thật của thế giới cũng vậy, vì sự thể
thật của thế giới như vậy, sự thể thật của Pháp cũng vậy, vì sự
thể thật của Pháp như vậy, sự thể thật của các Thánh quả cũng vậy,
vì sự thể thật của các thánh quả là như vậy, sự thể thật của
Phật cũng vậy. Chính vì vậy, sự thể thật- sự thể thật của Phật,
sự thể thật của uẩn, của Pháp, của Thanh Văn Duyên Giác-đều là sự
thể thật và không có dấu vết của
sự khác biệt như tốt và xấu, vì không có cái gì hơn 1, không khác,
không diệt, không bị ảnh hưởng, không lưỡng tính chất, không có cả câu
hỏi về 2 tính cùng lúc. Vì khiêm nhường và từ bi đối với trí tuệ
hoàn hảo mà sự thể thật của Phật thì không được nhận biết , cũng
không phải không nhận biết, sự thể thật là như vậy. Chính vì vậy,
Phật giới thiệu thế giới này cho thế giới mê đắm, nhiều những khát
vọng, nhiệt huyết không có lý (unreasoned passion). Chính vì vậy sự
nhìn nhận này của thế giới diễn ra. Chính vì thế, trí tuệ hoàn
hảo là mẹ của các Phật, vì họ tự phát xuất hiện, không phải nhờ
trí tuệ hoàn hảo mà cũng không phải không nhờ trí tuệ hoàn hảo. Chính
vì vậy, Phật không nhận biết hay không không nhận biết sự thể thật,
biết được sự thể thật của thế giới, không dối, không thay đổi. Chính
vì không nhận biết hay không không nhận biết sự thể thật mà Phật
được gọi là Phật
Subhuti: Sự thể thật thì vượt trên sự nghĩ
biết được và không nghĩ biết được. Thưa Ngài, Bodhi của Phật thì
không được đem lại từ sự thể thật hay được tiết lộ qua sự thể thật,
nhưng lại chính là sự thể thật như nó là vậy (suchness)…không trong
hay ngoài bất kỳ thời gian nào, địa điểm nào, không có hướng hay
không vô hướng. Vậy những ai không nhận biết hay không không nhận biết
sự thể thật? Những Bồ Tát bất thoái chuyển, hay A la hán với những
ý định đúng đã đươc hoàn thiện, hay người nào có cái nhìn đúng đắn
với những trạm không thể biết (fathomless stations) được miêu tả bới
Phật như là sự thể thật, như Phật đạt được Bodhi.
Phật: Đúng vậy, Subhuti. Sự thể thật, vì Phật
không hoàn toàn nhận biết cũng không không nhận biết, không cạn kiệt,
vì Phật thì biết một cách thuần khiết (như không gian) rằng sự thể
như vậy thì như vậy, và có thể miêu tả sự thể như vậy là không có
cạn kiệt…Vì sự thể như vậy, không hoàn toàn được nhận ra (realized)
hay không không nhận ra…(sự thể như vậy) thì là sự biết thuần khiết
vô tận.
Những đặc điểm không thể biết (fathomless) và
chúng được thắt lại (fastened) bằng cách nào
Lúc này, chư thiên cõi dục, sắc và 20000 chư
thiên cõi Brahma, đứng đầu bởi Sakra, đến gặp Phật, đê đầu kính lễ
Phật, đứng qua một bên và hỏi: Cũng như Pháp khó biết được hết thì
được tiết lộ, thưa Ngài, vậy những dấu hiệu được đính kèm với
chúng là thế nào?
Phật: Những dấu hiệu được gắn kết với những
pháp khó hiểu hết thì có những đặc điểm là vắng lặng, vô dấu
hiệu, không ước muốn (3 cửa giải thoát), không được sản sinh, không
dừng lại, không bị cấu bẩn, không được làm thanh khiết, chính vì vậy
như thế chúng không tồn tại, vượt trên luân hồi và Nirvana, lĩnh vực
của Pháp cũng vậy, sự thể như vậy cũng thế. Vì những dấu hiệu này
không được hỗ trợ bởi bất cứ thứ gì, chúng như là không gian. Những
đặc điểm này không được cố định, chọn bởi Phật, vì chúng không thể
được biết đến qua các uẩn. Vì chúng không phụ thuộc các uẩn, chúng
không được chọn (fixed on) bởi chư thiên, Rồng, hay sinh vật nào, và
chúng không thể bị lay động bởi chư thiên, nhân loại và A tu la. Vì cả
thế giới này bao gồm chư thiên, nhân loại, A tu la đều có đặc điểm
(mark) này. Không có bàn tay nào lựa chọn những đặc điểm này. Vậy
có đúng không nếu ta nói không gian được chọn ra những đặc điểm nào
không (fixed on something)?
Chư thiên: Không, thưa Ngài, vì như vậy thì tức
là có điều kiện.
Phật: Nói đúng lắm, và điều này cũng đúng.
Không quan trọng là Phật có được sản sinh ra hay không, những đặc điểm
này tự nhiên nổi lên, xuất hiện như vậy. Theo đúng như những gì nổi
bật (in accordance), cũng như vậy thì Phật miêu tả sự thật này
(reality), chính như vậy Phật nhận thức được hoàn toàn điều này.
Chính vì vậy Phật được gọi là Phật.
Subhuti: Những đặc điểm này thật thâm sâu, thưa
Ngài, như Phật biêt được hoàn toàn trí tuệ hoàn hảo là không gắn
kết với sự biết của Phật (realize perfection of wisdom as unattached
cognition of Tathagatas). Chính trường, vực (field) của sự biết không
gắn kết và ràng buộc này là trí tuệ hoàn hảo, là tầm của Phật.
Thế giới thì được chỉ ra là vắng lặng
Phật: Đúng như vậy, Subhuti. Phật chỉ bày trí
tuệ hoàn hảo cho thế giới này. Vì Phật thì phụ thuộc tương quan với
pháp, cũng như vậy đối với trí tuệ hoàn hảo này. Chính vì Phật
hiểu được những Pháp vốn trụ không cần có điểm tựa, Phật không trụ
ở đâu cả. Chính vì vậy, Phật phụ thuộc tương quan với Pháp. Phật tôn
trọng và kính ngưỡng, thờ phụng và yêu thích pháp, vì Phật biết
rằng bản tính cốt lõi của pháp chính là trí tuệ hoàn hảo. Cũng
giống như sự toàn giác của Phật được biết đến như là trí tuệ hoàn
hảo, Phật rất biết ơn trí tuệ hoàn hảo. Với lòng biết ơn và cảm
kích, các Phật ưa thích và trân trọng thừa này vì, đây chính là con
đường mà Phật đạt được Bodhi. Ta biết được Phật rất biết ơn và cảm
kích. Hơn thế nữa, Phật biết là các Pháp không phải được làm ra,
cũng không phải không làm ra, như là không được chắp nối lại với nhau
(not brought together). Từ đây, ta biết được Phật rất biết ơn và cảm
kích. Chính nhờ sự biết ơn trí tuệ hoàn hảo mà trí biết của Phật
hướng đi trên tất cả các Pháp. Đây cũng là một cách nhìn nhận khác
về sự thật rằng trí tuệ hoàn hảo cùng lúc giáo huấn Phật trong
thế giới này.
Subhuti: Làm sao mà trí tuệ hoàn hảo có thể
giáo huấn Phật khi mà tất cả các Pháp đều không thể biết được và
không thể nhìn nhận được?
Phật: Ông hỏi hay lắm, Subhuti. Tất cả các pháp
quả thật là không thể biết được và không thể nhìn nhận được vì
pháp thì vắng lặng, không dựa vào bất cứ đâu. Chính vì vậy tất cả
các pháp thì, như trí tuệ hoàn hảo, được Phật biết hết. Một lý do
nữa mà trí tuệ hoàn hảo được xem như là người hướng dẫn cho Phật ở
thế giới này chính là không có uẩn nào được nhìn thấy cả.
Subhuti: Làm sao mà có thể không có sự nhìn
thấy của 5 uẩn?
Phật: Khi trong chuỗi liên tục này tự phát ra
một hành động tâm thức mà không dựa vào các uẩn như là điểm tựa
thì lúc này có sự không nhìn thây 5 uẩn. Nhưng chính sự không nhìn
thấy các uẩn này là sự nhìn thấy của thế giới. Đây là cách mà
các Phật nhìn thấy thế giới này. Chính vì vậy, trí tuệ hoàn hảo
chính là người thầy của Phật. Và làm cách nào mà trí tuệ hoàn
hảo diễn tả cho thế giới biết thế giới là gì? Trí tuệ hoàn hảo chỉ
ra rằng thế giới là vắng lặng, không thể nghĩ bàn, yên lặng, bình
tĩnh. Như được tự thanh tịnh, trí tuệ hoàn hảo chỉ ra cho thế giới
biết, nhắc tới điều này, nhưng không làm gì cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét