Trí Tuệ hoàn hảo
Chương 1
Thực hành trí tuệ của mọi phương tiện
1 Giới thiệu
Như vậy tôi nghe, Đức Phật tại thành Vương Xá, đỉnh Thứu Phong,
cùng với Đại Hội 1250 người, toàn là A La Hán, cấu nhiễm đã trừ,
hoàn toàn kiểm soát, tự tại trong tâm, trí tuệ, thuần khiết, những
việc cần làm đã xong, hoàn tất, xả bỏ những gánh nặng, sự ràng
buộc đã cởi bỏ, Tâm trí thư thái vì suy nghĩ đúng, hoàn toàn kiểm
soát được tâm thức, ngoại trừ một người và Ngài A Nan
Đức Phật bảo Subhuti (Tu Bồ Đề), Trưởng Giả: Hãy làm sáng tỏ,
Subhuti, Bồ Tát, khởi đầu bằng trí tuệ hoàn hảo, làm cách nào mà
đi đến được trí tuệ hoàn hảo!
Tới đây Ngài Sariputra (Xá Lợi Phất) suy tư: Vậy ngài Subhuti sẽ
diễn giải trí tuệ hoàn hảo của chính mình, bằng chính sức lực của
mình hay là nhờ thần lực của Phật?
Ngài Subhuti, biết chính xác nhờ thần lực Phật, rằng Ngài
Sariputra đang đi trên con đường sáng suốt, nói với Sariputra: Tất cả,
Sariputra, mà Đệ Tử của Phật nói, đều là nhờ công sức của Tathagata
(Phật). Ở Pháp (Dharma) mà Ngài nói, những người tận tụy rèn luyện
và nhận thức được tánh tự nhiên, và luôn giữ trong tâm trí. Ở đây
mọi việc được giảng giải đều không trái với tánh tự nhiên của pháp.
2 Xóa bỏ cái tôi
Lúc này Ngài Subhuti, bắng sức của Phật, liền nói với Phật:
“Phật nói, Hãy làm sáng tỏ, Subhuti, Bồ Tát, khởi đầu bằng trí tuệ
hoàn hảo, làm cách nào mà đi đến được trí tuệ hoàn hảo!.” Khi nói
đến Bồ Tát thì chữ Bồ Tát này nhắc đến Pháp nào? Thưa Ngài, con
không thấy có Pháp Bồ Tát, hay Pháp nào gọi là trí tuệ hoàn hảo.
Vì con không thấy, không nắm bắt, không thấy được pháp Bồ Tát, hay
pháp gọi là trí tuệ hoàn hảo, vậy thì con giáo hóa và chỉ dạy Bồ
Tát bằng cách nào, và trong trí tuệ hoàn hảo nào? Tuy vậy, thưa
Ngài, như đã được chỉ ra, tâm Bồ Tát thì không sợ, không thoái, lại
không bất động, không thất vọng hay buồn bã, không lùi bước, không run
sợ, không hoảng sợ, chính là vị Bồ Tát này, người vĩ đại này sẽ
được chỉ giáo vào đến trí tuệ hoàn hảo. Chính sự việc này được
nhận thức là trí tuệ hoàn hảo của Bồ Tát, người thọ nhận trí tuệ
hoàn hảo. Là người đứng vững, trí tuệ hoàn hảo chính là sự dạy
dỗ cho Bồ Tát…Khi Bồ Tát đi trên con đường của trí tuệ hoàn hảo và
đang tự rèn luyện chính mình, người này sẽ tự rèn luyện, bởi vì
không tự kiêu ngạo với suy nghĩ về sự chứng Bồ Đề Vô Thượng. Tất cả
mọi suy nghĩ đều là vô suy nghĩ, không phải là suy nghĩ, vì trong
tánh tự nhiên, suy nghĩ là trong suốt và sáng tỏ.
Sariputra: Suy nghĩ này, được nói là vô suy nghĩ, đây có phải
là môt cái gì đó tồn tại?
Subhuti: Đây có phải là một thứ tồn tại, hay có ai có thể
biết được cái “này” (here is) hay “không phải cái này” (here is not)
trong trạng thái không có suy nghĩ chăng?
Sariputra: Không, không phải thế
Subhuti: Câu hỏi mà Sariputra đặt ra rằng suy nghĩ này, thực ra
là không phải suy nghĩ, có phải là một sự vật chăng, có thích hợp
không?
Sariputra: Vậy điều gì là trạng thái không có suy nghĩ?
Subhuti: Nó có phải là không có sửa đổi hay không phân biệt
chăng?
Sariputra: Subhuti, ông giải thích hay lắm, ông là người mà Phật
là người bậc nhất trong số người đứng vững trong sự thanh tịnh. Và
để là người bậc nhất trong số người đứng vững trong sự thanh tịnh.
Vì lý do này mà Bồ Tát được xem là không thoái chuyển Vô Thượng Bồ
Đề, là người không ngừng suy tư đến trí tuệ hoàn hảo. Không kể là
người rèn luyện ở mức bậc Thanh Văn Duyên Giác hay Bồ Tát, thì ai
cũng lắng nghe trí tuệ hoàn hảo, tập luyện, suy nghĩ trong trí,
tụng, học, lưu truyền, và cũng phải rèn luyện và cố gắng trong trí
tuệ hoàn hảo. Trong trí tuệ hoàn hảo, người có khéo phải rèn luyện
nỗ lực, tập trung suy nghĩ ra tất cả các pháp bao gồm trong đó một
Bồ Tát. Trong trí tuệ hoàn hảo, tất cả pháp bao gồm Bồ Tát, mà
người này rèn luyện và nỗ lực thì được chỉ rõ một cách chi tiết.
Ai muốn đạt đến Bồ Đề đều phải nghe, học, suy nghĩ, tụng, lưu truyền
trí tuệ hoàn hảo. Ai người khéo léo thì nỗ lực trong trí tuệ hoàn
hảo này, với mục đích tạo xuất (procure) ra tất cả các pháp bao hàm Bồ Tát.
Subhuti: Vì đệ không tìm ra được từ nào tương xứng với Bồ Tát
hay trí tuệ hoàn hảo, đệ phải giáo hòa Bồ Tát nào, trong trí tuệ
hoàn hảo nào? Thật là tiếc nếu đệ, không nhận thức được cả hai, sẽ
làm xuất hiện hay biến mất một Bồ Tát bằng ngôn từ. Ngay cả vậy,
sự thể này, được diễn đạt như vậy, thì đều không tiếp diễn
(continuous), lại cũng không vô tiếp diễn (non- ~) , không ngừng trệ
(discontinuous), lai cũng không vô ngừng trệ. Và vì sao? Đơn giản vì,
nó không tồn tại. Đây là lý do vì sao nó không tiếp diễn (continuous),
lại cũng không vô tiếp diễn (non- ~) , không ngừng trệ (discontinuous),
lai cũng không vô ngừng trệ. Một Bồ Tát, nếu không sợ sệt khi nghe
được điều này từ trí tuệ hoàn hảo thì chính là người không mất đi
trí tuệ hoàn hảo, và là người bất thoái chuyển Bồ Tát, đứng vững
là vì không đứng, dựa tại nơi nào cả.. Vì vậy, Bồ Tát muốn đi con
đường trí tuệ hoàn hảo và rèn luyện như vậy thì không trụ tại hình
tướng, cảm xúc, ý nghĩ, bản năng động lực (impulse), ý thức
(consciousness), chính vì điều này, người trụ tại hay suy xét về hình
tướng vv người này sẽ chỉ đi trên con đường bị lệ thuộc bởi hình
tướng và sẽ không đạt được trí tuệ hoàn hảohay cố gắng đi trên con
đường này được. Và vì không đạt được trí tuệ hoàn hảo, sẽ không
tiến được đến toàn giác, khi người này còn cố nắm bắt những thứ
khó nắm bắt (elusive) Trong trí tuệ hoàn hảo, hình tướng, vv không
thể nắm bắt được. Vì vậy, không nắm bắt hay dựa vào hình tướng, vv
đều không phải hình tướng, vv, và trí tuệ hoàn hảocúng không thể
bắt lấy được. Chính vì điều này
Bồ Tát đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo. Trực giác tập trung của
Bồ Tát được gọi là không nắm bắt tất cả các pháp. Nó quả thật là
rộng lớn, cao siêu, vô hạn, bất biến, điều mà Thanh Văn Duyên Giác
không có được. Tất cả mọi tri thức
không thể nắm bắt được, vì nó không thể được biết đến nhờ các dấu
hiệu. Nếu tất cả tri thức đều có thể biết được nhờ dấu hiệu
chỉ dẫn, Srenika sẽ không tin vào lời dạy và truyền thống chúng ta.
Srenika tin tưởng hoàn toàn vào trí biết tất cả tri thức, và là
người đi theo niềm tin, anh ta bước vào trí biết (cognition) với tầm
nhìn thu nhỏ. Anh ta không nắm lầy ngũ uẩn, không nhìn lại trí biết
với sự thích thú và khoái chí. Anh ta nhìn nhận điều này không ở
tướng trong, lại cũng không ở tướng ngoài, lại cũng không cả trong
lẫn ngoài, lại cũng không từ điều gì đó khác với ngũ uẩn. Ở đoạn
Kinh này, Srenika, một người tin tưởng tuyệt đối vào trí biết tất
cả, người được gọi là người đi theo niềm tin. Anh ta lấy thực tánh
của pháp làm chuẩn mực, tin tưởng tuyệt đối vào vô tướng
(signlessness), cho đến mức không nắm lấy bất kì pháp nào, không thấu
triệt (apprehend) pháp nào mà anh ta có thể nắm lấy hay thả đi. Anh ta
không quan tâm đến Niết Bàn (Nirvana). Đây được biết là trí tuệ hoàn
hảo của Bồ Tát, vì không nắm lấy ngũ uẩn, và không đến Nirvana nửa
chừng trước khi nhận biết được 10 lực của Phật, 4 địa của sự tự
tin, và 18 pháp đặc thì của Phật. Đây cũng được gọi là trí tuệ
hoàn hảo của Bồ Tát, hơn nữa, Bồ Tát đi trên con đường trí tuệ hoàn
hảo và rèn luyện như vậy thì suy xét và ngẫm nghĩ trí tuệ hoàn
hảo là gì, ai thể hiện trí tuệ hoàn hảo, và về trí tuệ hoàn hảo
như pháp, vốn không tồn tại, và không thể bắt giữ. Chỉ khi những suy nghĩ này tạo thành
một loại nghĩa không mô tả được (wordless sense), và không làm người
nghi ngờ và sợ sệt thì mới đúng là Bồ Tát nắm giữ được trí tuệ
hoàn hảo.
Sariputra: Làm sao mà Bồ Tát được biết đến như là được trí
tuệ hoàn hảo tiến đến, vì tướng vốn không sở hữu sự tồn tại riêng
biệt của hình tướng, và cũng vậy đối với uẩn còn lại. trí tuệ
hoàn hảo cũng không sở hữu chính sự riêng biệt của trí tuệ hoàn
hảo. (own being of perfect wisdom), và tất cả trí tuệ cũng không sở
hữu chính sự riêng biệt của trí tuệ toàn giác?
Subhuti: Đúng vậy, Sariputra, Hình tướng không sở hữu bản thể
riêng biệt của hình tướng, cũng vậy đối với các uẩn còn lại. Trí
tuệ hoàn hảo không sở hữu dấu hiệu nào của trí tuệ hoàn hảo. Dấu
hiệu cũng không sở hữu tính độc lập của dấu hiệu. Mọi sự có dấu
hiệu đều không sở hữu bản tính của sự có dấu hiệu, và chính vì
vậy điều này vốn được xem như là bản thể riêng biệt thật không có
dấu hiệu của sự sở hữu riêng biệt, cũng giống như vậy đối với hình
thù, âm thanh, suy nghĩ, ngôn từ hay lý thuyết, người hay đồ vật.
Sariputra: Ngay cả như vậy, Bồ Tát rèn luyện trong sự rèn luyện
này thì có đến được kiến thức toàn giác không?
Subhuti: Người như vậy đúng là đến được. Vì tất cả pháp đều
không từ đâu sinh ra, không đi đến đâu. Khi Bồ Tát đi như vậy thì đến
gần tới toàn giác (all knowledge). Người đến gần tới toàn giác thì
thân, ý và dấu hiệu đều là toàn thuần khiết, vì ích lợi của người
đã trưởng thành, và gặp được Phật. Chính vì vậy Bồ Tát đến gần
tới trí tuệ hoàn hảo thì đến gần đến toàn giác.
Subhuti nói thêm: Người đi trên con đường dẫn dắt bởi dấu hiệu
của ngũ uẩn, hay dấu hiệu cũng như ngũ uẩn, hay ý nghĩ rằng “hình
tướng chính là dấu hiệu” hay sự sản xuất của hình tướng, hay sự
ngừng trệ hoặc phá hủy của hình tướng, hay nghĩ rằng, “hình tướng
vốn trống rỗng”, hay “tôi đi”, hay “tôi là Bồ Tát”. Vì một người chỉ
đi theo ý nghĩ “tôi là Bồ Tát” làm căn bản. Hay, người này nghĩ
“người nào đi trên con đường như vậy là đi con đường của trí tuệ hoàn
hảo và đang củng cố nó”, người nay này chỉ đi theo những dấu hiệu.
Những Bồ Tát như vậy là không khéo léo phương tiện.
Sariputra: Vậy Bồ Tát phải đi như thế nào mới đúng là đi trên
con đường trí tuệ hoàn hảo?
Subhuti: Người này không dựa vào ngũ uẩn, hay dấu hiệu nào của
ngũ uẩn, hay ý tưởng rằng, ngũ uẩn là dấu hiệu, hay là sự tạo ra
ngũ uẩn, hay là sự phá hủy của ngũ uẩn, hay ý nghĩ rằng ngũ uẩn
vốn rỗng không hay “tôi đi”, hay “tôi là Bồ Tát”. Và người này cũng
không nghĩ rằng người nào đi trên con đường như vậy là đi con đường
của trí tuệ hoàn hảo và đang củng cố nó”. Người này đi như vậy
nhưng không nghĩ rằng ‘tôi đi’, “tôi không đi”, “tôi đi và tôi không đi”,
“tôi không đi, cũng không không đi”, và cũng vậy “tôi sẽ đi”. Một người
không tiến đến pháp được vì tất cả các pháp đều là không tiến gần
được và không thể nắm bắt được. Vì vậy, Bồ Tát chỉ suy nghĩ thuần
khiết và không phân biệt suy nghĩ “không nắm bắt tất cả các pháp qua
tên gọi hay hình thức, không quan trọng là rộng lớn, cao cả, vô biên
và bất động, không có chung với Thanh Văn hay Duyên Giác. Khi tập trung
suy nghĩ như vậy, Bồ Tát nhanh chóng nhận thức Bồ Đề (Bodhi), Đức
Phật lúc này thọ ký cho người
này. Nhưng khi người này ở trong sự tập trung suy tư như vậy, người
này không nghĩ rằng “tôi bình tĩnh”, “tôi sẽ vào tập trung”, “tôi sẽ vào
sự tập trung”, “tôi đã vào sự tập trung”, “tôi đang tiến vào sự tập
trung”. Tất cả những suy tưởng và nhận xét đều không tồn tại đối
với người này.
Sariputra: Vậy một người có thể diễn đạt những suy nghĩ trên
hay không?
Subhuti: Không, Sariputra, vì tất cả thiện nam thiện nữ không thể
biết hay nhận thức được điều này.
Sariputra: Đệ nói là không ai có thể biết hay nhận thức được
điều này?
Subhuti: Đúng vậy, vì những suy nghĩ như vậy là không tồn tại.
Phật: Nói đúng lắm, Subhuti. Và như vậy Bồ Tát rèn luyện như
vậy, chính là người rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo.
Sariputra: Người như vậy đi trong trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Người như vậy đi trong trí tuệ hoàn hảo
Sariputra: Người như vậy rèn luyện theo pháp nào?
Phật: Người này không rèn luyện theo pháp nào cả, pháp không
tòn tại theo nghĩa mà người không có rèn luyện nghĩ.
Sariputra: Vậy pháp tồn tại theo nghĩa nào?
Phật: Chính vì pháp không tồn tại nên pháp mới thật tồn tại.
Và vì không tồn tại nên người không khéo nghĩ như vậy là vì vô minh.
Mặc dù không tồn tại nhưng những người này tạo ra pháp. Mặc dù đã
tạo ra pháp nhưng người này ở trên 2 thái cực, người này không biết
hay thấy sự thể thực của pháp. Dựa vào sự liên quan này làm cơ sở,
người này tạo ra quá khứ, vị lai, hiện tại. Và bây giờ, khi đã được
tạo ra, những pháp này lắng xuống theo tên gọi và hình tướng. Chính
những sự tạo lập này của pháp, vốn dĩ không tồn tại, và những
người này không biết hay thấy con đường thực sự theo nghĩa đúng của
nó. Vì lý do này, họ không thoát khỏi Tam đồ (triple world), và không
nhận thức được ra giới hạn của thực thể (reality limit). Chính vì
vậy họ là những người vô trí. Những người này chỉ ra niềm tin nhưng
không đúng cho mình và cho người khác, không như theo tính chất thật
sự của pháp. Nhưng Bồ Tát không dừng chân tại bất cứ pháp nào.
Sariputra: Khi một người luyện tập như vậy, thì Bồ Tát có phải
là đang rèn luyện trong toàn giác không?
Phật: Khi một người rèn luyện như vậy, Bồ Tát không rèn luyện
trong toàn giác, nhưng rèn luyện trong tất cả các pháp. Khi rèn luyện
như vậy, Bồ Tát rèn luyện nơi toàn giác, và tiến gần đến gần tới
nơi này.
Subhuti: Thưa Ngài, có người
hỏi, Vậy người giả tưởng (illusory) này có rèn luyện trong toàn giác
không, có tiến gần nó không, có đi đến nó không? Làm sao để giải
thích được điều này?
Phật: Ta sẽ hỏi một câu hỏi đối lại, cứ trả lời theo khả năng
của mình.
Subhuti: Đúng vậy, thưa Thế Tôn, và Subhuti lắng nghe câu hỏi của
Phật.
Phật: Vậy ông có nghĩ, Subhuti, ngũ uẩn (hình tướng…) là một
việc, còn ảo tưởng là một việc không?
Subhuti: Không, thưa Ngài, thật không phải ảo tưởng là một sự,
còn ngũ uẩn là một việc khác; chính hình thể này là ảo tưởng,
còn ảo tưởng này thì là hình thể.
Phật: Ông có nghĩ, Subhuti, chính từ ‘Bồ Tát’ này, sự diễn
đạt này đều là do ngũ uẩn mà thành không?
Subhuti: Đúng vậy. Bồ Tát rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo
thì xem mình như là người không có thật (illusory) để đạt đến Bodhi.
Người này giữ trong tâm trí rằng 5 uẩn này chính là con người ảo
tưởng này. Phật nói hình tướng chính là ảo tưởng. Và vì đây là
đúng đối với hình thức, nó cũng đúng đối với 6 giác quan, và ngũ
uẩn.
Subhuti: Những Bồ Tát mới phát tâm có run sợ không trước những
lời nói này?
Phật: Những ai run sợ trước những lời nói này là bị ảnh
hưởng bởi ác tri thức, không phải là thiện tri thức.
Subhuti: Vậy ai là thiện tri thức của Bồ Tát?
Phật: Những ai giáo hóa trên con đường của sự hoàn hảo. Những
ai chỉ ra cho Bồ Tát những hành động của Ma, nói rằng “đây là những
sai phạm và hành động của Ma, hãy loại trừ chúng ngay khi nhận ra
được. Những người này là thiện tri
thức của Bồ Tát, mặc áo giáp và bước đi trên Đại thừa (great
vehicle), và cưỡi trên Đại Thừa.
3 Ý Nghĩa của Bồ Tát:
Subhuti: Khi Ngài nói Bồ Tát, vậy nghĩa này là gì?
Phật: Khi nói đến từ này có nghĩa là không có gì thực cả.
Bồ Tát rèn luyện bằng cách không dựa vào bất kì pháp nào cả. Bồ
Tát nhận thức sự không gắn kết với Bodhi, với nghĩa là người này hiểu
được tất cả các pháp. Vì người này có mục tiêu là Vô Thượng Bodhi,
người này được gọi là Bồ Tát (Bodhisattva)
4 Ý nghĩa của Vĩ Nhân
Subhuti: Vậy khi Ngài nói Bồ Tát là Vĩ Nhân, vì lý do gì mà
được gọi như vậy?
Phật: Những Bồ Tát nào được gọi là Vĩ Nhân khi được hiểu là
diễn đạt và tiết lộ cho vô số người đến với sự nhận thức vô hạn
Sariputra: Vậy con đã rõ vì lý do nào mà Bồ Tát được gọi là
Vĩ Nhân
Phật: Hãy nói rõ những gì ông nghĩ!
Sariputra: Tất cả Bồ Tát được gọi là vĩ nhân khi hiểu được là
biết rõ các pháp như sự thật, diễn đạt như thật các pháp. Những
lỗi lầm nhỏ đã diệt trừ-những suy nghĩ như nhĩ có cá thể, cái tôi,
linh hồn, người, có trở thành, có không trở thành, có diệt, có vĩnh
hằng, có biệt lập, những suy nghĩ sai biệt về sự vật hay người
thuộc về những thừa hưởng độc lập, hay như vậy có thể mất đi những
đặc tính được gán cho sự thừa hường đó.
Subhuti: Son cũng hiểu vì sao Bồ Tát được gọi là Vĩ Nhân
Phật: Hãy nói rõ hơn xem!
Subhuti: Tất cả Bồ Tát được gọi là vĩ nhân khi không còn dựa
vào và không vướng mắc vào những suy nghĩ về Bodhi, suy nghĩ về toàn
giác, suy nghĩ khi không còn cấu nhiễm, những suy nghĩ Vô Thượng hay
tương đương với Vô Thượng, hay suy nghĩ liên quan hay không liên quan đến
Thanh Văn hay Duyên Giác. Tất cả những suy nghĩ về toàn giác (all
knowledge) thì đều không còn cấu nhiễm, và không bao gồm trong thế
giới. Nói về toàn giác và những suy nghĩ vô cấu và không bao gồm
(unincluded), người này không lệ thuộc vào và cũng không bị chi phối
(uninvolved). Khi hiểu được như vậy thì Bồ Tát được biết đến như là
Vĩ Nhân.
Sariputra: Vì lý do nào mà người này không dựa vào ngay cả suy
nghĩ này, và không bị chi phối bởi nó?
Subhuti: Chính vì vậy, đây không phải là suy nghĩ.
Sariputra: Vậy suy nghĩ này, vốn là không suy nghĩ, có phải là
1 sự thể không?
Subhuti: Bây giờ có thực sự tồn tại không, hay có người nào có
thể, trong trạng thái không có suy nghĩ, biết được “bây giơ là đây” hay
“bây giờ không phải”?
Sariputra: Không, ngay cả cái này
Subhuti: Vậy làm sao Ngài Sariputra có thể hỏi, hay nói, “suy
nghĩ này, vốn không phải là suy nghĩ, có phải là thứ gì đó chăng?
Sariputra: Ngài giải thích vậy đúng lắm, Ngài là người được
Phật khen là tối thượng, trụ trong nhu hòa.
Lúc này, Purna, con trai của Maitrayani, nói với Phật: Đúng là
một Vĩ Nhân khi người này mặc áo giáp, đi trong đại thừa, cưỡi trên
đại thừa. Đây là lý do người này được gọi là Vĩ Nhân.
Subhuti: Người này vĩ đại đến mức nào mà được gọi là mặc áo
giáp?
Phật: Lúc này Bồ Tát suy nghĩ: Có vô số người được ta dẫn
dắt đến Nirvana, tuy vậy thật không có ai dẫn dắt đến Nirvana, và
cũng không có ai được dẫn dắt. Mặc dù có nhiều người được dẫn đến
Nirvana, không có ai được dẫn đến, hay có ai dẫn những người này. Vì
vậy đây chính là thực chất của pháp, nhìn nhận như vậy thì biết là
ảo tưởng. Subhuti, giống như nhà ảo thuật, hay người học thuật, biến
hiện ở ngã tư một đám đông người, và rồi làm họ biến mất…Ông nghĩ
sao, Subhuti, có ai bị giết đi hay bị phá hủy, hay bị làm cho biến
mất đi không?
Subhuti: không, thực là không
Phật: Cũng như vậy, Bồ Tát, 1 Vĩ nhân, dẫn dắt vô số chúng
sanh đến Nirvana, mặc dù vậy cũng
không có ai được dắt đến, không có ai dắt người đó đến. Nghe được
điều này mà không sợ sệt thì Bồ Tát này chính là mặc áo giáp vĩ
đại
Subhuti: Theo như con hiểu lời nói của Phật thì không phải là
mặc áo giáp mà Bồ Tát được biết đến như là vĩ nhân.
Phật: Đúng như vậy, Cũng như toàn giác không được tạo ra, không
bất tạo, không bị ảnh hưởng. Những người mặc áo giáp như vậy để
cứu vớt người khác thì không được tạo ra, không bất tạo, không bị
ảnh hưởng.
Subhuti: Đúng như vậy. Vì ngũ uẩn đều không bị trói buộc, cũng
không được giải thoát, và điều này cũng đúng với sự thể của hình
tướng, cảm xúc, suy nghĩ, phản xạ, ý thức.
Purna: Nhưng bây giờ thì hình tướng mà đệ nói không bị ràng buộc,
cũng không được giải thoát, cái nào là sự thể của hình tướng?
Subhuti: Hình tướng của tất cả những người vốn không thực thì
không bị ràng buộc hay giải thoát. Thực sự là, nó không có mặt ở
đây, nó là tách biệt, không được sinh ra. Đây chính là áo giáp, áo
giáp không phải áo giáp của Bồ Tát, vĩ nhân, được trang bị áo giáp,
đi trên con đường đại thừa, cưỡi trên đại thừa.
Sau những lời nói này, Ngài Purna im lặng
5 Ý nghĩa của Đại thừa
Subhuti: Đúng vậy, thưa Ngài, Bồ Tát, Vĩ nhân mặc áo giáp, đi
đến Đại thừa, cưỡi trên đại thừa. Nhưng Đại thừa là gì? Làm sao để
biết ai đi trên đại thừa này? Khi nào thì phương tiện này đến và đi?
Ai hay cái gì đi trên ấy? Đứng ở đâu? Ai là người tiến về trước nhờ
Đại thừa?
Phật: Đại thừa là đồng nghĩa với sự không thể đo lường. Không
đo lường là vô hạn, và vì thế không có thứ gì có thể định ra được
sự đo lường này bằng tên gọi hay số lượng để biết được nó là thế
nào hay nhiều thế nào. Bằng sự hoàn hảo, Bồ Tát bước đi. Từ Tam
thế giới này mà ra đi. Người này đi đến nơi không có sự vật nào để
bám víu. Bồ Tát là như vậy, là một vĩ nhân bước đi, nhưng không đi
đến nơi nào. Và cũng không đặt ra mục tiêu là không trụ ở bất cứ nơi
nào, nhưng lại đến được với toàn giác bằng cách không đứng ở đâu
cả. Va cuối cùng, bằng phương tiện này, không ai ra đi, không ai đã ra
đi và sẽ ra đi. Vì không có pháp nào tồn tại-người ra đi và phương
tiện để ra đi, đều không thể nắm bắt được. Chính vì tất cả các
pháp không tồn tại, pháp nào ra đi được nhờ vào pháp nào? Như vậy Subhuti, Bồ Tát, vĩ
nhân mặc áo giáp và bước đi trên đại thừa
Subhuti: Phật nói đến đại thừa. Vượt trên thế giới với những
chư thiên, người, Atula, phương tiện này ra đi. Nó như không gian, và to
lớn vô cùng. Cũng như không gian, phương tiện này là chỗ chứa cho vô
số người. Phương tiện Bồ Tát này vĩ đại như vậy. Ta không thể thấy
nó đi, đến, hay trụ, không tồn tại. Vì vậy ta không thể biết được
điểm đầu và cuối hay giữa. Nhưng nó đều là như nhau ở mọi nơi. Chính
vì vậy mà nó được gọi là Đại thừa.
Phật: Đúng lắm, Subhuti, đúng như vậy. Đây chính là phương tiện
của Bồ Tát. Rèn luyện bằng phương tiện này mà Bồ Tát đạt đến toàn
giác, đã đạt đến và sẽ đạt đến.
Purna: Ngài Subhuti, như được hỏi về trí tuệ hoàn hảo, nghĩ
rằng Đại thừa có thể được chỉ ra.
Subhuti: Thưa Ngài, khi nói đến đại thừa thì có làm sai với
trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Không. Theo nghĩa của trí tuệ hoàn hảo ông đã chỉ ra đại
thừa.
6 Thành quả
Subhuti: Bằng thần lực của Phật, Bồ Tát đi trên phương tiện này
không đạt đến quả vị Bồ Tát lúc đầu, cuối, hay giữa. Bồ Tát thì
rộng lớn vô biên như hình, xúc, ý, thức, phản xạ. Không nên tiến đến
kết luận là Bồ Tát chính là 1 hình tướng. Sự thể này không tồn
tại, và không thể nắm bắt được. Vì vậy ở bất kỳ quan điểm nào thì
con không đến với bất kỳ pháp nào mà trong đó bao gồm 1 Bồ Tát, con
cũng không thấy pháp nào mà trong đó từ Bồ Tát ám chỉ. Trí tuệ
hoàn hảo thì không thể thấy được và cũng không nắm bắt được. Toàn
giác thì cũng không thể thấy hay nắm bắt được. Cũng giống như ở mọi
cách mà pháp có thể thấy được và nắm bắt được-Vậy ta cần giáo
hóa và chỉ dạy bằng pháp nào, trong pháp nào? ‘Phật’, “Bồ Tát”,
“trí tuệ hoàn hảo”, tất cả đều là ngôn từ. Những sự thể mà những
từ này biểu đạt đều không được tạo ra. Cũng giống như suy nghĩ về
cái tôi. Mặc dù chúng ta nói đến cái tôi, mặc dù vậy thì tất cả
cá thể đều là những thứ không được tạo ra. Vì ở đây tất cả các
pháp đều không có cái riêng biệt độc lập của chính nó, cũng vậy nó
không được tạo ra. Mặc dù vậy thì sự vô sinh (non creation) của tất
cả các pháp đều khác biệt với những pháp này. Làm cách nào mà con
có thể giáo hóa sự vô sinh bằng sức trí tuệ hoàn hảo khi mà trí
tuệ hoàn hảo cũng là không được tạo ra? Mặc dù vậy ta không thể nắm
bắt được pháp là một cái gì đó không phải vô sinh, bất luận là đây
có phải là suy nghĩ bao gồm Phật, Bồ Tát, hay người đang đi đến
Bodhi. Nếu Bồ Tát nào khi nghe những điều này mà không sợ hãi thì ta
biết là vị này đang đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo, đang rèn
luyện, phát triển trên phương diện này. Vào thời điểm này thì Bồ
Tát truy xét những pháp này qua trí tuệ hoàn hảo, vào thời điểm
này thì Bồ Tát này không đến với hình tướng hay các uẩn khác.
Người này cũng không xem những hình tướng như là được sinh ra, hay bị
dừng lại. Bởi vì sự không sinh (non production) của hình tướng ,vv đều
không phải là hình tướng, vv. Tất cả những sự không ra đi (non passing
away) của hình tướng đều không phải là hình tướng, vv, Sự không sinh
và hình tướng đều không phải là 2 thứ riêng biệt, cũng không phải là
cách biệt. Khi người nào đó gọi một thứ là hình tướng thì người
này nhận định một thứ tách biệt chứ không phải là 2 thứ. Vì vậy,
Bồ Tát suy xét trí tuệ hoàn hảo tất cả các pháp bằng tất cả các
phương tiện mà nó chỉ ra (any and all modes as such may merely indicate),
nhưng người này không bao giờ tiến đến ngũ uẩn làm điểm tựa.
Sariputra: Nếu như đệ hiểu lời nói của Subhuti thì không có Bồ
Tát được sinh ra. Nhưng nếu Bồ Tát không sinh ra thì làm sao mà đi trên
con đường khó khan này, và làm sao mà chịu đựng được những trải
nghiệm khó khăn này vì chúng sinh?
Subhuti: Đệ không tìm một Bồ Tát nào đi trên con đường khó khan,
nếu nghĩ là con đường khó khăn thì không phải là Bồ tát. Nếu nghĩ
là khó khan thì không thể nào giúp đỡ vì hạnh phúc của người
khác.Mặc khác, người này nghĩ là nhẹ nhàng, nghĩ là mọi người đều
là cha mẹ con cái của mình, và vì lý do này người này đi trên phương
tiện Bồ tát. Bồ Tát luôn suy tưởng mọi chúng sinh đều là cha mẹ con
cái của mình, ngay cả bản thân nữa, như vầy: “Như tôi muốn thoát khỏi
mọi khốn khổ, mọi người ai cũng muốn hết khổ. Đối với chúng sinh,
người nayd cũng nghĩ: Tôi không từ bỏ chúng sinh, tôi ước nguyện sẽ
giải thoát vô lượng thống khổ! Và tôi không suy nghĩ đến những suy
nghĩ hận thù, cho dù tôi có bị xé ra tram mảnh. Chính như vậy Bồ
tát giúp đỡ người khác. Khi một người đã suy nghĩ như vầy thì không
nhận thức khó khăn. Và hơn nữa Bồ Tát suy nghĩ “cũng như mỗi cá thể
đều không tồn tại, và không tiến đến được thì cũng như vậy pháp thì
không tồn tại và cũng không tiến đến được. Người này nghĩ như vậy
đối với hết thảy các pháp, trong lẫn ngoài. Khi ngươì này suy nghĩ
như vậy thì không bước đi hay suy nghĩ là khó khăn.. Nhưng như Ngài
Sariputra nói, Bồ tát không sinh, và đúng như vậy, Bồ tát thì không
sinh ra
Sariputra: Hơn nữa, có phải chỉ là Bồ tát không sinh, hay cả
pháp có bao gồm Bồ Tát cũng vậy?
Sariputra: Vậy chỉ có pháp bao gồm Bồ Tát thì không sinh, hay
là tất cả trạng thái của toàn giác cũng như vậy?
Subhuti: Tất cả trạng thái toàn giác cũng vô sinh
Sariputra: Vậy chỉ có trạng thái toàn giác cũng vô sinh, hay là
tất cả các pháp bao hàm điều này?
Subhuti: Pháp trong đó bao gồm toàn giác cũng vô sinh
Sariputra: Vậy chỉ có pháp bao gồm toàn giác vô sinh hay là cả
người thường cũng vậy?
Subhuti: Tất cả mọi người thường đều không sinh.
Sariputra: Chỉ có mọi người thường đều không sinh hay cả các
pháp bao gồm điều này?
Subhuti: Pháp bao gồm những người thường này cũng không sinh.
Sariputra: Vậy, Subhuti, nếu Bồ Tát là không sanh, cả các pháp
bao gồm Bồ Tát cũng vậy, và cả toàn giác, các pháp bao gồm toàn
giác, cả người thường và các pháp bao hàm người thường, vậy thì Bồ
Tát không nhọc công mà cũng đến được toàn giác sao?
Subhuti: Đệ không muốn cầu thành quả nào của pháp không sinh,
và cũng không cầu sẽ hợp nhất với pháp. Hơn nữa, Một người có thể
đạt đến thành quả vốn không sinh ra qua pháp vốn không sinh ra hay
không?
Sariputra: Vậy thì thành quả vốn không sinh được đạt đến từ
pháp có sinh ra hay từ pháp vốn không sinh?
Subhuti: Vậy thì pháp vốn không sinh có sinh ra không, hay là
không sinh?
Sariputra: Vậy thì sự sinh ra của các pháp là vốn không sinh,
hay là sự không sinh của các pháp là sự sinh?
Subhuti: Nếu nói đến sự sinh ra là sự không sinh của pháp thì
không thể hiểu nổi.
Sariputra: Nói đến không sinh ra thì cũng không thể hiểu nổi.
Subhuti: Không sinh chỉ là cách nói. Không sinh thì chỉ hiện ra
trước mắt của tâm thức. Không sinh chỉ là một chớp nhoáng ở tâm
thức, hoàn toàn không là gì hơn.
Sariputra: Người đứng đầu về thuyết pháp chính là Subhuti. Vì
có hỏi điều gì thì đệ cũng tìm ra cách giải thích. Đệ không đi
chệch hướng của tánh thật của các pháp, không làm trái nghĩa đối
với các pháp.
Subhuti: Đây chính là điều cơ bản tuyệt đối của Phật về các
Đệ tử, không có tựa trụ, vì vậy ở bất kỳ cách hỏi nào, những người
này đều tìm được câu trả lời, không đi ngược với tánh chân thực của
pháp, cũng không rời các pháp. Đây chính là điều này, không lệ thuộc
vào pháp nào cả.
Sariputra: Nói hay lắm, Subhuti. Vậy sự hoàn hảo nào của Bò Tát
thì làm cho những điều này không trụ vào bất cứ pháp nào?
Subhuti:Trí tuệ hoàn hảo, lợi ích cho tất cả 3 thừa, cũng là
sự hoàn hảo mà giúp những người này không dựa vào pháp nào, bởi
vì bản tính của nó là chỉ ra rằng tất cả các pháp đều không có
chỗ dựa và vì vậy, không thể làm chỗ dựa. Nếu Bồ Tát nào không sợ
sệt khi điều này được nói ra thì cần phải biết người này đã điều
chỉnh theo trí tuệ hoàn hảo, và người này không mất đi sự tập trung
vào những thông tin đúng (true facts) về pháp
Sariputra: Vậy làm sao Bồ Tát không mất đi sự tập trung thì tự
điều chỉnh theo trí tuệ hoàn hảo? Vì nếu Bồ Tát không mất đi sự
tập trung thì người này mất đi sự điều chỉnh uyển chuyển với trí
tuệ hoàn hảo, và nếu tự uyển chuyển theo trí tuệ hoàn hảo thì
người này thiếu sự tập trung. Nhưng với Bồ Tát mà không thiếu sự
uyển chuyển, lại có tập trung, thì tất cả mọi người ai cũng trụ
lại nơi trí tuệ hoàn hảo vì người này không mất đi sự tập trung.
Subhuti: Đệ nói hay lắm, nhưng Subhuti vẫn phải khieernr trách
đệ, mặc dù Sariputra đã nắm bắt được vấn đề theo văn nghĩa, nhưng
cần phải biết là sự tập trung thì không có bản tính riêng biệt,
cũng giống như mọi người đều không có bản tính riêng biệt. Sự tập
trung không có sự tồn tại thật cũng giống như mọi người đều không có
sự tồn tại thật. Sự tập trung thì riêng biệt cũng như mọi người thì
riêng biệt, sự tập trung thì không thể nghĩ bàn cũng như mọi người
thì không thể nghĩ bàn; những hành động về suy nghĩ trong tâm trí
thì không trải qua bất kỳ diễn biến nào để đạt đến Bodhi, cũng
giống như mọi người không đi đến quá trình nào, những hành động về
suy nghĩ trong tâm trí theo nghĩa thực thì không trải qua bất kỳ diễn
biến nào để đạt đến Bodhi, cũng giống như mọi người không đi đến quá
trình nào. Đệ hy vọng là Bồ Tát sẽ đi theo con đường này qua sự tập
trung như vậy.
Chương II
Sakra
1 Lời tựa
Vào thời điểm này, có nhiều chư thiên đến vân tập tại Đại
hội, bao gồm Sakra (Đế Thích), cùng với 40000 chư thiên cõi trời 33,
Tứ Đại Thiên Vương, 20000 chư thiên đi theo Tứ Đại Vương; Brahma, Chủ thế
giới Ta bà, 5000 chư thiên cõi Thanh Tịnh, dù vậy, thần lực của Phật
với oai nghiêm và thế vị đều hơn hết thảy vẻ trang nghiêm của những
vị chư thiên này, những thành quả mà những người này đã làm trong
quá khứ.
Sakra: Hàng ngàn vị Trời, Subhuti, đã đến ngồi ở đây vì chúng
tôi muốn nghe về trí tuệ hoàn hảo thuyết bởi Subhuti, và lắng nghe
những lời khuyên của Ngài cho Bồ Tát, về những giáo hóa của ngài
về cách mà Bồ Tát đứng vững trong trí tuệ hoàn hảo, làm cách nào
để rèn luyện và thực hành.
Subhuti: Hãy để tôi giải thích cho ông, qua thần lực, thế vị,
oai nghiêm của Phật. Những vị Thiên, nếu chưa khát vọng Bodhi thì hãy
bắt đầu đi. Những người chắc chắn sẽ thoát khỏi thế giới (Alahan)
thì đều không tiến đến được Bodhi, vì những người này không muốn về
lại sinh tử để cứu vớt mọi người, như lòng từ bi. Vì sao? Vì biển
sinh tử giữ những người này lại. Vì không muốn tái sinh nên những
người này không đạt đến Bodhi. Mặc dù vậy, họ vẫn có thể muốn đến
được tới Bodhi, và tôi bảo đảm như vậy. Tôi không che khuất những căn lành
của họ. Bởi vì ai cũng phải đề cao pháp tối thượng là trên hết.
Phật: Đúng vậy, Subhuti, ông đã ủng hộ Bồ Tát rất chính xác.
Subhuti nói với Phật: Chúng đệ tử đều biết ơn Phật, không vô
ơn. Vì Phật, ở bên cạnh Phật, đều dẫn dắt tới cuộc sống cao cả,
lấy Bodhi làm mục tiêu. Mặc dù người này đã nhận thức được nhận
thức của Bồ Tát, đệ tử vẫn giáo hóa anh ta với những sự hoàn hảo
như trên, và qua con đường anh ta đi thì sẽ biểu lộ sự biết tột cùng,
để lợi ích vô số chúng sanh. Vì vậy chúng con giúp đỡ, tán dương,
hỗ trợ và giữ gìn Bồ Tát, vì những người mà chúng con giúp đỡ,
tán dương, hỗ trợ và giữ thì sẽ sớm đạt được Bodhi.
2 Làm cách nào để đứng vững trong vắng lặng (emptiness), trong
trí tuệ hoàn hảo
Bây giờ, Subhuti nói với Sakra: Hãy lắng nghe, Kausika, và xem
xét kỹ trong khi tôi nói cho ông làm thế nào mà Bồ Tát đứng vững
trong trí tuệ hoàn hảo. Bằng cách trụ trong vắng lặng thì người này
đứng trong trí tuệ hoàn hảo. Bồ Tát mặc áo giáp, rèn luyện để
không trụ lại bất cứ đâu, không trụ ở hình tướng,vv (ngũ uẩn), không
trụ trên giác quan (mắt, tai vv), thân, ý, không trụ trong ý thức của
mắt, vv cho đến không trụ ý thức của tâm, cho đến các thành phần, như
nước lửa, đất, gió, thăng hoa, không trụ vào cột của sự nhận thức
(mindfulness), tay chân của Đường đi (limbs of the Path); không trụ vào quả
Dự lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn hay A la hán, Duyên Giác hay Phật quả.
Người này không trụ vào suy nghĩ “đây là hình thức”, “đây là cảm
xúc”,vv cho đến “đây là quả vị của Phật”. Người này không trụ lại
bất kỳ ý nghĩ như “ngũ uẩn là vô thường hay thường còn”; “ngũ uẩn
là xấu hay tốt”, “ngũ uẩn là tự
thân hay không có tự thân”, “ngũ uẩn là dễ hay khó”, hay ngay cả “ngũ
uẩn là vắng lặng, hay có thể hiểu như là một thứ gì đó”. Người
này không trụ tại những suy ngĩ như thành quả của đời sống cao cả
là đáng kính phục vì nó là “Vô điều kiện”. Hoặc là quả Dự lưu thì
đáng được cúng dường, và sẽ được tái sinh ít nhất 7 lần nữa. Hay
người Nhất Lai thì đáng được cúng dường bởi vì người này không nhận
thức đến tận cùng, nên sẽ trở lại thế giới một lần nữa để xả bỏ
cấu nhiễm. Hay, Người Bất Lai đáng được cúng dường vì không còn trở
lại thế giới nữa và sẽ nhận thức Nirvana ở một nơi khác. Hay, 1 A La
Hán thì đáng được cúng dường vì ngay trong hiện tại sẽ đạt được
Nirvana và sẽ không để lại bất cứ gì. Hay vị Duyên Giác thì đáng
cúng dường và sẽ đạt đến Nirvana khi đã vượt lên khỏi vị Thanh Văn,
nhưng chưa đạt đến địa vị của Phật. Hay ngay cả , Phật đáng cúng
dường và sẽ đạt đến Nirvana của Phật, ở Nirvana và không để lại gì,
khi mà đã vượt lên trên vị thường của con người, trên cả Thanh văn và
Duyên Giác, đem lại hạnh phúc cho vô số người, dẫn đến Nirvana vô số
ức triệu người, giúp họ đạt quả vị Thanh Văn, Duyên Giác hay Phật
vị, đang đứng ở địa vị Phật và làm Phật sự, ngay cả điều này thì
Bồ Tát cũng không trụ lại.
Lúc bấy giờ Ngài Sariputra nghĩ: Nếu ngay cả ở đây mà người
này không trụ lại thì sẽ trụ thế nào, và rèn luyện thế nào? Ngài
Subhuti, đọc được suy nghĩ này nhờ thần lực của Phật, liền nói: Ông
nghĩ sao, Sariputra, Phật thì đứng ở đâu?
Sariputra: Phật thì không trụ ở đâu cả. Tâm của Phật không tìm
kiếm hay dựa vào một chỗ trụ. Những người như Phật thì không trụ
lại nơi có điều kiện, hay nơi vô điều kiện, và Phật cũng không từ
những điều này mà sinh ra.
Subhuti: Và cũng như vậy Bồ Tát cũng rèn luyện như vậy. Người
này nghĩ như vầy: Vì Phật không trụ ở đâu, cũng không bất trụ, cũng
không đứng tách rời, cũng không bất đứng tách rời, chính như vậy tôi
sẽ rèn luyện”. Cứ như vậy người này sẽ rèn luyện như vậy. “như Phật
đứng trụ như vậy thì tôi cũng đứng như vậy, và rèn luyện như vậy.
Như Phật đứng trụ như vậy thì tôi cũng đứng như vậy cũng như không có
chỗ để trụ. Khi người này luyện tập như vậy thì là tự điều chỉnh
mình về trí tuệ hoàn hảo, và sẽ không bao giờ quên như vậy.
3 Các vị Thánh và mục tiêu của họ đều là ảo tưởng (illusion)
Lúc này những chư thiên suy nghĩ như vầy: “Những gì mà các vị
tiên nói và nói thầm, chúng tôi đều hiểu, mặc dù nói thầm, nhưng
những gì Subhuti nói chúng tôi không hiểu/” Subhuti đọc được suy nghĩ
này và nói: Đây không phải là thứ để mà được hiểu (no-thing to
understand) hoàn toàn không phải và một thứ. Không có thứ gì đã được
diễn nói, không có thứ gì được giải thích
Lúc này các vị Thiên nghĩ: Mong rằng Ngài Subhuti sẽ giải
thích cặn kẽ hơn! Mong rằng Ngài Subhuti sẽ giải thích cặn kẽ hơn!
Những gì mà ngài Subhuti nói ở đây diễn giải và dạy bảo thì còn
ít biết hơn cái ít biết, khó hiểu hơn khó hiểu, sâu hơn cả sâu.
Subhuti đọc được những suy nghĩ này và nói: Không ai có thể đạt được
thành quả của cuộc sống cao cả (holy life) hay giữ được nó, từ quả
Dự Lưu đến Bodhi, nếu không kiên nhẫn mà chấp nhận điều này: tất cả
các pháp khó có thể nắm lấy được (elusive)
Bây giờ các vị Thiên nghĩ: Vậy người nào thế nào thì được
nghe những lời nói thâm sâu của ngài Subhuti?” Subhuti đọc được suy
nghĩ này và nói: “Những người học được lời nói của tôi thì sẽ
giống như là những sự kiến tạo từ ảo thuật ảo tưởng, vì những
người này không nghe được những lời tôi nói hay nhận thức được sự
thật đang được diễn nói ở đây
Thiên chúng: Mọi người như là ảo tưởng của màn ảo thuật, vậy
sự thật có phải là một ảo ảnh không?
Subhuti: Cũng giống như ảo ảnh của ảo thuật, những người này
như một giấc mơ, vì ảo tưởng của ảo thuật và chúng sinh như mộng
tưởng và chúng sinh đều là một. Tất cả mọi sự thật (objective facts)
bị động đều như huyễn hóa, như giấc mơ. Tất cả các vị Thánh, từ Dự
Lưu đến Phật đều như huyễn hóa, như giấc mơ.
Thiên: Ông nói ngay cả Đức Phật cũng là huyễn hóa, như giấc
mộng? Quả Phật vị thì cũng là huyễn hóa, như giấc mộng chăng?
Subhuti: Ngay cả Nirvana thì cũng là huyễn hóa, như giấc mộng,
huống gì những thứ khác.
Thiên: Ngay cả Nirvana thì cũng là huyễn hóa, như giấc mộng?
Subhuti: Nếu có thể có một thứ gì khác tuyệt hảo hơn thì tôi
cũng nói đó như huyễn hóa, như giấc mộng. Bởi vì huyễn hóa và
Nirvana là 1, giấc mơ và Nirvana là 1
Lúc bấy giờ ngài Sariputra, ngài Purna, con trai của Maitrayani,
ngài Mahakoshthila, ngài Mahakatyayana, ngài Mahakashyapa và các đệ tử
khác, cùng vời hàng ngàn Bồ Tát hỏi: “Những ai, Subhuti, có khả năng
nắm bắt được trí tuệ hoàn hảo khi được thuyết ra?”
Lúc bấy giờ Anan nói: Bồ Tát bất thoái chuyển thì hiểu được
điều này, hay những người có cái nhìn đúng đắn, hay A La Hán không
còn cấu nhiễm.
Subhuti: Không ai có thể nắm bắt được trí tuệ hoàn hảo, bởi
vì không có pháp nào được diễn giải, soi sáng hay truyền đạt. Cũng
như vậy, không ai có thể nắm bắt được điều như vậy
4 Hoa của Sakra
Lúc này Sakra suy nghĩ: Hãy để tôi tán dương và thờ phụng câu
nói về pháp mà ngài Subhuti đang diễn giải, lúc này, Sakra hiện và
rải hoa lên ngài Subhuti. Ngài Subhuti lại suy nghĩ như trả lời: Những
hoa này đang xuất hiện ở giữa những vị trời 33 này tôi chưa từng thấy
bao giờ. Những bông hoa mà Sakra rải đều là biến hiện ảo thuật. Những hoa này không xuất phát từ cây,
cỏ hay cây leo. Những bông hoa được hiện ra bây giờ đều là do tâm thức
tạo ra. Sakra trả lời: “Những bông hoa này không xuất hiện từ đâu, bởi
vì nó không phải từ suy nghĩ, cây, cỏ, cây leo sinh ra”. Bấy giờ
Subhuti nói: “Đúng như ngài nói, những bông hoa này không từ đâu mà ra,
không từ tâm, từ cây cối nay cây leo, vì những thứ mà không phải từ
đâu ra thì không phải là hoa.
5 Rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo
Lúc bấy giờ Sakra nghĩ như vầy: Rất mực khôn khéo, quả như
vậy, Subhuti, khi ông giải thích chỉ một sự việc nhỏ như vậy, mặc dù
như vậy vẫn không mâu thuẫn với những kiến nhận của sự thật (norm of
truth), mặc khác lại chỉ rõ và giải thích chúng một cách đơn giản.
Sakra nói với Subhuti: Đúng vậy, Bồ Tát thực hành đúng như những gì
mà ông chỉ ra.
Subhuti: Người rất mực tận tụy thì làm như vậy. Người rèn
luyện như vậy không vì quả vị Dự Lưu hay các Thánh quả hay cho tới
quả vị Phật. Như vậy người nào rèn luyện như vậy ở những cấp độ
như vậy, thì rèn luyện, như Phật tánh, để đạt đến sự toàn giác
thanh tịnh và không phân biệt; và cũng như vậy rèn luyện trong vô số
vô hạn Phật-Pháp. Vì vậy, người tu luyện thì không nhằm tang them ngũ
uẩn, hay làm chúng giảm đi, không nắm bắt ngũ uẩn, hay thả chúng đi.
Cũng không tu luyện để nắm bắt được tất cả các pháp cho đến sự
toàn giác, không sản sinh, cũng không làm nó biến mất. Khi tu luyện
như vậy thì Bồ Tát tu luyện ở sự toàn giác, và tận tụy như vậy
thì đi đến sự toàn giác.
Sakra: Vậy Bồ Tát có đi đến sự toàn giác hay không, mặc dù
người này không rèn luyện để nắm bắt được pháp nào, ngay cả sự
toàn giác, không sản sinh, cũng không làm biến mất.
Subhuti: Người như vậy thật đúng là làm như vậy.
Sakra hỏi Sariputra: Bằng cách nào và ở nơi đâu thì Bồ Tát có
thể tìm kiếm trí tuệ hoàn hảo?
Sariputra: Ở trong bài thuyết luận của Subhuti
Sakra: Bằng thần lực của ai mà ngài Subhuti giảng dạy được trí
tuệ hoàn hảo?
Sariputra: Bằng thần lực của Phật, và thế vị của Phật.
Subhuti: Đúng là từ thần lực của Phật mà trí tuệ hoàn hảo
được giảng dạy. Như ông hỏi: Bằng cách nào và ở nơi đâu thì Bồ Tát
có thể tìm kiếm trí tuệ hoàn hảo? Câu trả lời là người này không
tìm kiếm điều này qua hình tướng hay 5 uẩn, hay bất cứ điều gì
ngoài hình tướng, ngoài 5 uẩn. Bởi vì trí tuệ hoàn hảo thì không
phải 1 trong những 5 uẩn, lại cũng không phải ngoài 5 uẩn.
6. Sự vô hạn của trí tuệ hoàn hảo
Sakra: trí tuệ hoàn hảo thật đúng là hoàn hảo, vô biên, vô
hạn, không thể tính đếm được.
Subhuti: Đúng như vậy, là vì sao? Trí tuệ hoàn hảo thì vĩ
đại, vô hạn, không tính đếm được là vì hình tướng, cảm xúc vv cũng
như vậy. Vì vậy, không nên suy nghĩ rằng ‘đây là trí tuệ hoàn hảo’,
và ‘hoàn hảo vô tận’, ‘hoàn hảo vô biên’, ‘hoàn hảo không thể tính
đếm’. Đây là lý do vì sao trí tuệ hoàn hảo thì rất hoàn hảo, vô biên,
vô tận. Trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận là vì vật thể
cũng như các cá thể chúng sinh cũng là vô tận. Trí tuệ hoàn hảo là
sự hoàn hảo vô tận vì không ai có thể đến được đầu, giữa hay cuối
của sự thật bị động (objective fact). Hơn thế nữa, trí tuệ hoàn hảo
là hoàn hảo vô tận vì tất cả các sự thật đều vô tận vô biên, phần
giữa, đầu và cuối đều không thể nắm bắt được. Vì không ai có thể
nắm bắt được phần giữa, đầu và cuối, hay ngay cả ngũ uẩn. Chính vì
lý do của sự vô tận của sự thể (objects) mà trí tuệ hoàn hảo là
sự hoàn hảo vô tận. Hơn thế nữa, tất cả nọi người thì đều vô tận
vì không thể biết được điểm đầu, giữa và cuối. Vì vậy, trí tuệ
hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận vì lý do là có vô số chúng sinh
Sakra: Subhuti, vì sao trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận
bởi vì có vô số chúng sinh?
Subhuti: Nó không phải là vì số lượng chúng sinh vô vàn như
vậy.
Sakra: Vậy, Subhuti, vậy trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô
tận bởi vì có vô số chúng sinh đúng không?
Subhuti: Kausika, từ “chúng sinh” diễn đạt sự thật toàn thể
nào? (factual entity)
Sakra: “chúng sinh” là diễn tả sự không pháp hay không phải
pháp. Nó là từ ngữ được gắn vào một cái gì đó không có căn cứ
(groundless), tự thể không có gì cả (no-thing), không được thiết lập
bởi những sự thật nào cả.
Subhuti: Vậy khi nói đến “chúng sinh” thì có chúng sinh nào
xuất hiện chăng?
Sakra: không, Subhuti
Subhuti: Vậy nếu không có chúng sinh nào xuất hiện thì làm sao
có vô số chúng sinh? Bởi vì, nếu vị Phật nào, với giọng nói phát
ra vô số hướng, và với giọng nói như sấm này, phát âm từ “chúng
sinh” trong vô số kiếp nhiều như cát song Hằng thì vị Phật này có
sản sinh hay chấm dứt cuộc sống của sinh linh nào không, trong quá
khứ, hiện tại, vị lai?
Sakra: không, Subhuti! Bởi vì chúng sinh vốn thanh tịnh từ thuở
ban đầu, hoàn toàn thanh tịnh.
Subhuti: Cũng như vậy, trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận
vì có vô số chúng sinh. Bằng cách này thì nếu có vô số trí tuệ
hoàn hảo thì cũng được biết từ vô số chúng sinh.
7 Xác nhận.
Lúc này các chư Thiên xung quanh Indra, Brahma và Prajapati và
đoàn người nam và nữ xung quanh Rishis thốt lên 3 lần: “Hoan hô Pháp!
Hoan hô Pháp! Hoan hô tính pháp của Pháp! Và họ nói them: Subhuti quả
thật diễn tả, chỉ rõ và làm sáng tỏ bằng cách nào mà Phật hiện
thế (theo đúng tính chất ấy) (how thusly any Tathagata comes to be
manifest). Là Phật tương lai chúng con tín nhận tất cả Bồ Tát sở hữu
sự đầy đủ của trí tuệ hoàn hảo và những ai thực hành như vậy
Phật nói: Đúng vậy, các chư Thiên! Cũng như ta, khi gặp được
Đức Phật Dipankara, ở thành phố vương quốc Dipavati, sở hữu trí tuệ
hoàn hảo, Dipankara đã thọ ký cho ta thành Phật, và nói với ta: “Này
Brahmin, ông sau này, trong vô số kiếp về sau, sẽ thành Phật, hiệu là
Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), có đầy đủ trí tuệ và đạo hạnh, Giải
Thoát, biết cả thế giới, vô thượng, người giáo hóa, thầy của trời
người, Phật Đà!
Các chư Thiên đều nói: Thật là tuyệt vời, thưa Ngài, đây thật
là tuyệt vời, thưa Ngài, có bao nhiêu tri thức thì đều được nuôi
dưỡng và ủng hộ những Bồ Tát này, với phương tiện là trí tuệ hoàn
hảo.
Chương III
Kính trọng đối với đài pháp của sự hoàn hảo, nơi cất chứa vô
số giá trị tốt.
1 Giá trị thường trong đời sống của trí tuệ hoàn hảo (worldly
advantage)
Phật thấy những vị chư Thiên tụ họp như vậy, có cả tăng, ni,
thiện nam, thiện nữ đều ngồi tụ họp, Ngài liền nói với các chư
Thiên: Ma, và quyến thuộc của ma sẽ không thể hãm hại bất cứ ai tu
theo trí tuệ hoàn hảo, luôn giữ trong trí, dạy, học, hay lưu truyền
trí tuệ hoàn hảo. Người và Ma cũng không thể hãm hại người này.
Những người này cũng không chết oan uổng, những thần tiên muốn đạt
được Chánh Đắng Giác, nhưng không có trong tay được trí tuệ hoàn hảo
thì đến gần những người làm như vậy để lắng nghe, những vị này
cũng tu tập, giữ trong trí, dạy, học và lưu truyền trí tuệ hoàn hảo
này. Người hết lòng tôn trọng trí tuệ hoàn hảo này thì không sợ,
không bao giờ khiếp sợ, mặc dù ở trong rừng, dưới gốc cây, nới vắng,
đồng hoang, trên lộ, đường cao tốc, hay trên biển.
Tứ Đại Thiên Vương: Thật tuyệt vời, thưa Ngài, những ai học
tập, vv trí tuệ hoàn hảo này, vì những người này huấn dụ mọi
người trong 3 thừa, nhưng không nhận thấy có ai cả. Chúng con, thưa
Ngài sẽ ủng hj và bảo vệ người đó.
Sakra, Brahma và các thiên chúng hứa sẽ bảo vệ những người đi
theo trí tuệ hoàn hảo
Sakra: Thật tuyệt vời, thưa Ngài, bằng cách tu học, vv trí tuệ
hoàn hảo này, người này sẽ gặt hái được nhiều điều lợi ngay tại
đây. Vậy người như vậy thì có tu học theo cả 6 sự hoàn hảo hay không?
Phật: Có, và hơn nữa, bằng cách tu học, vv trí tuệ hoàn hảo
này, người này sẽ gặt hái được nhiều điều lợi ngay tại đây. Hãy
lắng nghe kỹ, ta sẽ diễn nói những lợi ích này
Xin Ngài hãy nói, chư Thiên nói
Phật: Những sự bất đồng, cãi vã và bất thuận đối với pháp
này sẽ tan biến mất, ý đồ của kẻ thực hiện tan biến mất. Đây là
một sự thực, khi mà người nào tu học theo trí tuệ hoàn hảo này thì
những sự cãi vã ấy biến mất, không còn tồn tại nữa. Đây là một
điều lợi.ngay hiện tại. Ở đây, chúng ta có một loại cây thuốc tên
Maghi, là liều thuốc cho mọi loại loại độc dược.Giả sử có rắn lục,
đang đói, thấy có một sinh vật, liền theo sinh vật đó, theo mùi của
nó, để nhằm ăn thịt nó, nhưng bây giờ, sinh vật này chạy vào một
lùm cây Maghi và đứng tại đó, ta biết là mùi hương của cây này làm
cho con rắn quay đầu lại. Vì dược tính của cây này mạnh đến mức hơn
cả độc dược của rắn, cũng như vậy, những xích mích, cãi vã mà
người đi theo trí tuệ hoàn hảo phải đối mặt thì tự nhiên êm dịu
lại, không còn biến động nữa, là nhờ dòng lửa xuyên suốt của trí
tuệ hoàn hảo, nhờ vào sức mạnh, năng lực, sự chứa đựng năng lực
của nó. Tất cả những thứ này tan biến cả, và không còn tồn tại,
không phát triển được hơn nữa. Là vì sao? Vì trí tuệ hoàn hảo làm
tan biến mọi ác tâm, từ tham lam bình thường cho đến bám lấy Nirvana,
không làm nó tang trưởng. Và tất cả chư Thiên, Phật và Bồ Tát, đều
bảo hộ cho người tu học theo trí tuệ hoàn hảo. Đây là một điều lợi
ở ngay hiện tại. Còn nữa, giọng nói của người đi theo trí tuệ hoàn
hảo thì dễ nghe, nhẹ nhàng, vừa phải, điềm tĩnh. Sân hận và kiêu
ngạo không còn chế ngự những người này. Khi người này tập trung chăm
chỉ để cố gắng diễn tả những sự thực trong cuộc sống (reveal such
facts) thì trí tuệ hoàn hảo chuyển hóa và thuần hóa (tame) người
này. Sân hận và kiêu ngạo không tang trưởng, Người này không còn tâm
lý thù địch hay ác tâm, không còn có cả xu hướng tới những ý nghĩ
này. Người này trở nên thân thiện và chú tâm (mindful). Người này suy
nghĩ: Khi tôi chấp thuận với những ý xấu thì khả năng tâm thức
(faculties) của tôi tan thành từng mảnh, như vậy cho đến tất cả những
đặc tính có lợi cho tất cả mọi người bị nuốt mất, và thật là vô
lý khi tôi đã quyết tâm đến với Bodhi và quyết tâm tu rèn như vậy mà
lại để tự thân bị kiểm soát bởi sân hận. Bằng cách này, người này
lấy lại khả năng điềm tĩnh. Đây cũng là một cái lợi ở ngay tại nơi
này.
Sakra: Thật là một điều tuyệt vời trí tuệ hoàn hảo này được
đặt ra (set up for) để giúp giáo hóa và dạy dỗ Bồ Tát
Phật: Hơn thế nữa, người đi theo trí tuệ hoàn hảo này nếu có
ra trận, ngay khi ở tiên phong thì vẫn không thể bị mất mạng. Người
này không thể bị giết bởi kẻ khác. Nếu có ai dùng kiếm, gậy, hay
đất mà đánh người này thì thân người này cũng không thể bị đánh.
Bởi vì trí tuệ hoàn hảo này là một kho tàng rất lớn, vô tận, vô
biên, không thể tính đếm, vô thượng, kho tàng ngang bằng với Vô Thượng,
chính là trí tuệ hoàn hảo. Khi người này rèn luyện trong trí tuệ
hoàn hảo thì người này không đánh động sự bình tâm của mình hay của
người (disturb one’s peace). Bồ Tát rèn luyện trong kho tàng này thì vén
mở Bodhi, nhận thức được toàn giác. Đây cũng là một điều lợi ở ngay
tại đây. Hơn thế nưa, ở đâu mà trí tuệ hoàn hảo này được viết thành
sách, trang nghiêm và được tôn thờ, lại được giữ trong trí, tu học
thì chúng sinh ở đó không bị hãm hại, ngoại trừ vì nghiệp lực đã
tạo. Đây cũng là một điều lợi ở ngay tại đây. Cũng như vậy, Kausika,
người và ma đi đến đạo tràng Bodhi, hay đến vùng lân cận, vùng trong,
hay cội của cây Bodhi, thì đều không bị hãm hại bởi người hay ma,
không bị đả thương, hay bị đoạt sinh khí (taken possession of), ngay cả
đối với sự giúp đỡ của thú ác, ngoại trừ là do phải trả quả
nghiệp trước. Tại đây, Phật quá khứ vị lai và hiện tại và vị lai
đến để vén mở trí Phật, tâm Bodhi (enlightenment) và củng cố, tiết
lộ cho chúng sinh sự không sợ, không hiếu chiến (hostility), không hoảng
(fright). Cũng như vậy, Kausika, ở nơi có người tu học, nắm trong trí,
vv trí tuệ hoàn hảo thì nơi đó chúng sinh không hại chúng sinh, Trí
tuệ hoàn hảo làm cho nơi đất có nó trở thành đền tháp chân thật cho
chúng sinh- đáng được thờ phụng và yêu mến, là chỗ trú cho chúng
sinh, nơi nghỉ ngơi và là chỗ che chở cứu trợ cho chúng sinh. Đây cũng
là một điều lợi ở ngay tại đây.
2 Sự thờ phụng trí tuệ hoàn hảo so với sự thờ phụng Phật
Giả sử có 2 một người là thiện nam hay thiện nữ, chép trí
tuệ hoàn hảo này, tạo ra một bản sao. Người này đặt lên trên cao,
thờ cúng, tôn trọng, ngưỡng mộ với thiên hoa, hương, nhang, lụa, hương
bột, tràng phan, cờ, chuông, đèn xung quanh, và nhiều kiểu để thờ
phụng. Người thứ 2 đặt vào tháp xá lợi của Phật, người đã nhập
Nirvana, người này nắm giữ và bảo quản những vật này, tôn sùng, thờ
phụng và trang hoàng với hoa, hương, vv như người trước, vậy người nào
nhiều công đức hơn?
Phật: Ta sẽ hỏi ông ở điểm này, ông hãy trả lời theo hết khả
năng của mình. Phật, như đã thu nhập và biết được Bodhi toàn giác,
vậy Phật làm thế nào để đạt được sự vén mở của tính chất toàn
giác, tu luyện theo pháp nào mà được vậy?
Sakra: Chính là nhờ trí tuệ hoàn hảo này mà Phật đạt được
Bodhi và trí tuệ hoàn hảo.
Phật: Cũng như vậy, Phật không thiết lập ra cái tên cho sự thể
rằng một người đã đạt được tính cách vật lý này (physical
personality), nhưng từ sự thể thực tế (from the fact) là người này đạt
đến toàn giác. Và chính sự toàn giác này của Phật được bắt nguồn
từ sự tu học trí tuệ hoàn hảo này. Tính cách vật lý của Phật có
được là nhờ khéo léo trong phương tiện của trí tuệ hoàn hảo này.
Và chính sự như nhau này là nền tảng vững chắc để làm cho sự biết
của toàn giác này xuất hiện. Được hỗ trợ nhờ nền tảng của sự
tiết lộ về trí biết toàn giác này, thì từ đó mới xuất hiện thân
Phật, thân Pháp, thân Tăng. Tính chất vật lý có được là nhờ sự biết
của toàn giác. Chính là vì nó là nền tảng của của tất cả trí
biết, nó đã trở thành một đền tháp chân thật cho mọi người, đáng
được tôn trọng và kính nể, thờ phụng. Khi đã vào Nirvana thì xá lợi
của ta cũng được thờ phụng. Chính vì lý do này mà người chép (copy)
trí tuệ hoàn hảo này có được một công đức khác hẳn. Vì khi làm
việc này thì người này thờ phụng sự biết của toàn giác. Thiện nam
và thiện nữ, khi chép ra trí tuệ hoàn hảo này và tôn sùng trí tuệ
hoàn hảo thì có được công đức khác hẳn. Vì khi tôn thờ trí tuệ
hoàn hảo thì chính là tôn sùng sự biết của toàn giác.
Sakra: Làm sao mà như vậy được, người Diêm Phù (Jambudvipa) không
copy trí tuệ hoàn hảo này, không học theo, không thờ phụng, không biết
rằng Phật đang dạy cách tu học trí tuệ hoàn hảo, một điều vô cùng
có lợi, gieo hạt giống tốt! Nhưng những người này không biết được
điều này! Không tin tưởng điều này! Không hiểu được điều này!
Phật: Ông nghĩ sao, Kausika, có bao nhiêu người ở Jambudvipa có
niềm tin hoàn hảo ở Phật, Pháp, Tăng?
Sakra: Chỉ một số người.
Phật: Đúng vậy, Kausika, chỉ một số người ở Jambudvipa có niềm
tin hoàn hảo vào Phật, Pháp, Tăng. Ít hơn những người này là những
người đạt quả vị Dự Lưu, sau đó là Nhất Lai, Bất Hoàn, ít hơn nữa
là A La Hán, ít hơn nữa là những người đạt được Duyên Giác quả. Ít
hơn nữa là những người phát tâm Bodhi (raise any thoughts to full
enlightenment). Ít hơn nữa là những người, bằng cách làm sạch những
chướng ngại, và từ đây suy nghĩ đến Bodhi, và ngay cả lúc này cũng
tiếp tục tăng cường những suy nghĩ trên. Ít hơn nữa là những người
nâng những suy nghĩ này lên đến Bodhi, và lại còn tinh tấn dụng sức.
Ít hơn nữa là những người thiền về trí tuệ hoàn hảo. Ít hơn nữa
là những người áp dụng và bước đi trên trí tuệ hoàn hảo. Ít hơn
nữa là những người làm như vậy rồi, bước đến địa vị Bồ Tát bất
thoái chuyển. Ít hơn nữa là những người tiếp tục cố gắng đi trên
trí tuệ hoàn hảo, đạt được đến Bodhi. Ít hơn nữa là những người
biết hoàn toàn về Bodhi. Bây giờ, khi mà những Bồ Tát đứng trên địa
vị bất thoái, biết được Bodhi (đắc đạo), lại diễn nói trí tuệ hoàn
hảo cho thiện nam và thiện nữ, những ai thực sự chú tâm, rèn luyện
chính bản thân mình và cố gắng nơi trí tuệ hoàn hảo. Những người
này tuần tự tu học theo trí tuệ hoàn hảo, thờ phụng nó. Ở đây có
vô số người nghĩ đến Bodhi, tang cường những suy nghĩ như vậy, lại đi
trên con đường như vậy, nhưng chỉ có một hoặc hai người đạt đến địa
vị bất thoái chuyển của Bồ tát! Bởi vì Bodhi rất khó diễn tả, và
rất khó để đạt đến được nếu không tinh tấn, lười biếng hay có những
đặc tính biểu hiện của người hạ cấp, suy nghĩ hạ cấp, ý tưởng và
trí tuệ hạ cấp. Vì vậy, nếu muốn chóng đạt được Bodhi thì phải
không ngừng nghe và học trí tuệ hoàn hảo này. Cần phải hiểu được
điều này, Bồ Tát được Phật huấn dụ trong trí tuệ hoàn hảo; cũng
như vậy cần phải rèn luyện như vậy, vì đây chính là Thầy của Phật.
Và trong mọi trường hợp, khi Phật nhập Nirvana thì Bồ Tát trở về
với chính trí tuệ hoàn hảo này. Bây giờ, Kausika, khi Phật nhập
Nirvana, nếu có người xây dựng nhiều bảo tháp làm bằng 7 thứ chất
liệu quý, đặt trong đấy xá lợi của Phật, và trong suốt cuộc đời
hiến cúng dùng hoa, vv vậy người này, nhờ vào công sức bỏ ra, có
được nhiều công đức chăng?
Sakra: Đúng vậy, người này được như vậy.
Phật: Người nào tin nhận trí tuệ hoàn hảo này thì công đức
còn khác gắp bội; người tin tưởng tâm sự, chú tâm kiên quyết vào trí
tuệ hoàn hảo, thanh thản trong niềm tin, nâng suy nghĩ của mình lên
đến Bodhi, chú tâm thật sự…nghe, học, giữ trong trí, tụng và học, lưu
truyền, diễn giải, lặp lại, làm sáng tỏ cho người khác, giải thích
nghĩa, suy xét với tâm thức, và dùng hết khả năng trí tuệ của mình
để xem xét, sao chép, và giữ gìn cất giữ bản sao để pháp này tồn
tại lâu dài, để cho người dẫn đường của Phật không bị ẩn mất, để
cho pháp không mất đi, để cho Bồ Tát tiếp tục được dẫn dắt vì người
dẫn dắt này không biết mệt, và người tôn trọng và thờ phụng trí
tuệ hoàn hảo…Kausika, người đi theo trí tuệ hoàn hảo thì công đức
khác hẳn so với người xây nhiều tháp làm bằng 7 báu để thờ xá lợi
Phật…còn khác hơn nhiều so với công đức người xây toàn tháp trên cả
thế giới này, hơn rất nhiều người trong bốn châu xây toàn là tháp
Phật. Hay cũng như vậy, tất cả chúng sinh trong tiểu thế giới
(chiliocosm), hay trung thế giới, hay đại thiên thế giới cũng đều làm
tương tự như vậy. Hay, giả sử tất cả mọi người trong tam thiên đại
thiên thế giới xây tháp như vậy, và mỗi người khi xây xong đều tôn thờ
tháp này cho đến 1 kiếp, và những gì còn lại trong 1 kiếp, ngay cả
như vậy, người đi theo trí tuệ hoàn hảo thì có công đức khác hẳn
với công đức của tất cả chúng sinh thờ phụng và xây dựng vô số tháp
Sakra: Đúng vậy, thưa Phật. Vì người nào tôn thờ trí tuệ hoàn
hảo thì người này, theo ý nghĩa tuyệt đối, tôn thờ tất cả Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai ở vô số quốc độ, việc mà chỉ có
thể hiểu được cùng một lúc bởi trí của 1 Đức Phật. Công đức của
người này thì khác với công đức vô số chúng sinh trong Đại thiên thế
giới nhiều như cát song Hằng, ngay cả khi mỗi chúng sinh ở đây xây 1
cái tháp, và khi xây xong rồi thì thờ phụng trong 1 kiếp, hay những
thứ còn lại trong 1 kiếp.
3 Trí tuệ hoàn hảo, thần chú vĩ đại
Phật: Đúng như vậy, Kausika, công đức của người đi theo trí tuệ
hoàn hảo thì hoàn toàn khác, cho đến không thể tính toán, không thể
nghĩ bàn, không thể so sánh, không giới hạn. Từ trí tuệ hoàn hảo,
tất cả kiến thức của Phật xuất hiện, từ kiến thức này mà xuất
hiện sự thờ phụng của Xá Lợi Thế Tôn. Ở đây người đi theo trí tuệ
hoàn hảo thì hoàn toàn khác với người xây dựng Tháp (stupas) làm
bằng 7 báu, để thờ Xa Lợi Thế Tôn.
Lúc này 40000 thiên chúng nói với Sakra, Đế Thích: Ngài hãy đi
theo trí tuệ hoàn hảo! Hãy làm theo trí tuệ hoàn hảo, tụng, học và
giải thichscho lợi lạc vô số chúng sinh!
Phật: Kausika, hãy học theo trí tuệ hoàn hảo, tụng, giải
nghĩa! Nếu Atula có ý định đánh nhau với thiên chúng trời thứ 33 thì
nếu ông, Kausika, đã học, tụng và giải thích nghĩa của trí tuệ hoàn
hảo bằng cách đem vào tâm trí thì A tu la sẽ từ bỏ ý định đó.
Sakra: Đây quả thật là kho tàng tuyệt xuất, kho tàng không thể
tính đếm, kho tàng không có giới hạn, kho tàng vô thượng, kho tàng
tương đương với sự vô thượng.
Phật: Đúng vậy Kausika, bởi chính nhờ kho tàng trí tuệ hoàn
hảo này mà Phật ở tất cả thì gian đã đến được và biết được Bodhi.
Nhờ vào trí tuệ hoàn hảo, Phật vị lai biết đến được Bodhi, nhờ vào
trí tuệ hoàn hảo, Phật hiện tại biết được Bodhi. Chính nhờ vào
việc này mà tri thức được hé mở. Nhờ vào kho tàng này mà thập
thiện được tiết lộ ở thế giới, tứ thiền cùng với các chi nhánh
của Bodhi, 4 vô tận cùng với các chi nhánh của Bodhi, 4 sự chứng của
vô sắc (formless attainment) hỗ trợ bởi các chi nhánh của Bodhi, 6 siêu
tri thức liên quan tới các chi nhánh của Bodhi (enlightenment-Vô Thượng
Bồ Đề), tóm tắt lại là 84000 pháp tạng, trí Phật, trí của sự tự
tồn tại, trí không thể nghĩ bàn.
Mặc dù vậy, cũng có lúc tưởng như không có Phật trên thế giới
này, chính các Bồ Tát, trang bị bởi khéo léo phương tiện nhờ nghe
được trí tuệ hoàn hảo lúc quá khứ (khi có Phật), thương xót chúng
sinh, đi đến thế giới này nhờ lòng từ bi, người đã củng cố thập
thiện, tứ thiền cùng với các chi nhánh của Bodhi, 6 siêu tri thức liên
quan tới các chi nhánh của Bodhi. Cũng như nhờ vành đĩa của mặt trăng
mà các cây cỏ, sao và chòm sao đều được chiếu sáng tùy theo năng lực
và sức mạnh của chúng, và vì vậy, khi Phật có vẻ như đã đi mất và
pháp yếu này có vẻ như bị ẩn mất, trong sự vắng mặt của Phật thì
tất cả những việc làm tốt, ngay thẳng, chuẩn mực, kiệt xuất và
thiện thì đều được nghĩ đến (conceive) và biểu hiện ở thế giới,
tất cả đều xuất phát từ Bồ Tát, được đem đến bởi Bồ tát, được lưu
truyền bởi phương tiện khéo léo của Bồ tát. Nhưng sự khéo léo phương
tiện của Bồ Tát đều xuất phát từ trí tuệ hoàn hảo, hãy chuẩn bị
thấy nhiều sự lợi ích tại đây và bây giờ.
Sakra: Những sự lợi ích này là như thế nào?
Phật: Những người này sẽ không chết oan uổng, vì thuốc độc,
kiếm, lửa, nước, gậy, vũ lực. Khi những người này suy nghĩ, nhớ lại
và thực hành trí tuệ hoàn hảo này, những tai họa gây hại người này
từ vua và hoàng tử, cận sự của vua, quan, đều không thành. Như vua…vv
cũng không thể hại người liên tục suy nghĩ, nhớ lại và thực hành
trí tuệ hoàn hảo này thì đều không thành công, vì trí tuệ hoàn hảo
giữ gìn người này. Mặc dù vua, vv có muốn đến gặp người này để
hại họ, nhưng vua lại quyết định chào họ và nói chuyện với họ. Bởi
vì chính trí tuệ hoàn hảo này bao gồm thái độ thân thiện và từ bi
đối với tất cả chúng sinh. Chính vì vậy, ngay cả khi những người đi
theo trí tuệ hoàn hảo phải vào giữa rừng đầy rắn độc, không có
người hay ma nào có thể hãm hại được, ngoại trừ do nghiệp quá khứ.
Ngay lúc này có 100 ngoại đạo đi đến Phật với ý nghĩ hãm
hại. Sakra, Đế thích, biết được như vậy, liền suy nghi: chắc chắn là
họ đến đây với tâm độc ác. Bây giờ ta sẽ suy nghĩ và nhớ lại trí
tuệ hoàn hảo như đã được Phật dạy, thực hành và lưu truyền, để
những ngoại đạo lang thang này không tiến gần tới được Phật, và sự
diễn giảng của trí tuệ hoàn hảo sẽ không bị gián đoạn.
Lúc này, Sakra liền nhớ lại trí tuệ hoàn hảo như đã được
Phật dạy, giữ trong trí, lặp lại, vận dụng và lưu truyền. Những kẻ
ngoại đạo ngay lập tức lễ phép chào Phật từ xa, và đi mất.
Lúc này, Sariputra suy nghĩ: vì lý do gì mà những ngoại đạo
lang thang này lễ phép chào Phật từ xa, và đi mất?
Phật: Vì Sakra, Chúa Tể của các chư Thiên, biết được ý định
bất thiện của những ngoại đạo lang thang, ông ta liền nhớ lại trí
tuệ hoàn hảo như đã được Phật dạy, giữ trong trí, lặp lại, vận
dụng và lưu truyền, với mục tiêu muốn những ngoại đạo lang thang này
rời bỏ, những người muốn gây sự, ngăn trở và không cho những kẻ này
quấy phá khi trí tuệ hoàn hảo đang được diễn giải. Và ta đã chấp
thuận cho Indra (Sakra). Ta không thấy bất kỳ pháp trong sáng nào của
những người này. Họ đều muốn đến để quấy phá.
Lúc này Ma, kẻ độc ác, nghĩ: 4 chúng của Phật đều đã tề tựu
đông đủ, và ngồi đối mặt với Phật. Đối mặt với Phật là chư thiên
cõi dục giới (sense desire) và sắc giới, họ chắc chắn sẽ được Phật
thọ ký thành Bồ Tát Bodhi. Giờ ta sẽ tiến đến để làm mờ mắt họ.
Lúc này ác Ma triệu tập 4 đội quân tiến đến chỗ Phật.
Lúc này Sakra nghĩ: Thật vậy, ta có thể thấy Ma, kẻ đã triệu
tập 4 đại quân tiến đến chỗ của Phật. Nhưng đoàn quân này không phải
là đoàn quân của vua Bimbisara, không phải của vua Prasenajit, không phải
quân đội dòng họ Thích của Licchavins. Ta cũng đã biết từ lâu ác Ma
đi theo Phật, tìm cách đột nhập, tìm cách thâm nhập, nhằm hãm hại chúng
sinh. Ta bây giờ sẽ nhớ lại trí tuệ hoàn hảo như đã được Phật dạy,
giữ trong trí, lặp lại, vận dụng và lưu truyền. Lúc bấy giờ, Sakra
liền nhớ lại trí tuệ hoàn hảo như đã được Phật dạy, giữ trong trí,
lặp lại, vận dụng và lưu truyền. Ngay lập tức, ác ma quay đi và lui
mất.
Chư Thiên trời thứ 33 biến hiện hoa Mạn đà la (Mandarava) bay trên
không trung và rải trên Đức Phật, và họ thốt lên: “Trí tuệ hoàn hảo
này sẽ đến với người Jambudvipa lâu dài!” Lại lấy thêm nhiều hoa
Mandarava mà tán rải đầy nơi Phật, và nói: Đúng là ác ma và tùy
tùng không có cơ hội thâm nhập vào những ai diễn
giải và phát triển trí tuệ hoàn hảo này, hoặc đi trên con đường
này. Những ai được nghe và học trí tuệ hoàn hảo này không phải chỉ
có chút ít căn lành. Những ai tới nghe trí tuệ hoàn hảo này thành
thục bổn phận của Jinas ở đời trước. Không phả nói đến những ai học
và tụng trí tuệ hoàn hảo đã được tu luyện trên tiến trình đến với
tự thực thể chính (thusness) và cố sức trong việc này; những người
này đã tôn thờ Phật. Bởi vì qua trí tuệ hoàn hảo này mà người này
tìm kiếm sự toàn giác. Cũng như tất cả châu báu đều từ biển mà ra,
và được tìm kiếm ở dưới biển, cũng như vậy châu báu của sự toàn
giác của Phật thì được tìm trong biển của trí tuệ hoàn hảo.
Phật: Đúng như vậy, Kausika. Đúng là từ trong biển của trí tuệ
hoàn hảo thì châu báu kiến thức của Phật có được.
4. Trí tuệ hoàn hảo và những hoàn hảo khác
Anan: Phật không ca ngợi Sự hoàn hảo của bố thí (ba la mật) hay
5 sự hoàn hảo khác; Ngài không tán dương tên gọi của chúng. Chỉ có
Trí Tuệ hoàn hảo (Prajnaparamita) là Ngài tán dương, và chỉ có tên
gọi này là Phật tán dương.
Phật: Đúng như vậy, A Nan, vì trí tuệ hoàn hảo kiểm soát 5 sự
hoàn hảo khác. Ông nghĩ sao, Anan, bố thí, không hồi hướng thì tri
thức này có gọi là bố thí hoàn hảo không?
Anan: Không, thưa Ngài.
Phật: Cũng vậy đối với những sự hoàn hảo khác. Ông nghĩ sao,
Anan, trí thức có là bất tư nghị không nếu được lật qua (turn over)
thành thiện căn bằng cách hồi hướng đến toàn giác?
Anan: Đúng vậy, đúng là bất tư nghị, hoàn toàn như vậy.
Phật: trí tuệ hoàn hảo có được tên này là nhờ có sự xuất
sắc vô thượng (paramatvat). Bằng trí tuệ hoàn hảo thì những thiện căn
này, hồi hướng đến toàn giác, được gọi là hoàn hảo (ba la mật).
Chính nhờ sự hồi hướng thiện căn này tới toàn giác mà trí tuệ
hoàn hảo này kiểm soát, dẫn dắt 5 sự hoàn hảo còn lại. Qua cách
nhìn này thì 5 sự hoàn hảo nằm trong trí tuệ hoàn hảo, và tên gọi
trí tuệ hoàn hảo chỉ là đồng nghĩa cho việc hoàn thiện 6 ba la mật.
Vì lí do này, khi trí tuệ hoàn hảo được nhắc đến thì cả 6 sự hoàn
hảo (ba la mật). Cũng như ngọc quý, vung vãi khắp thế giới, mọc lên
khi điều kiện thành thục, và mặt đất chính là điểm tựa, và những
viên ngọc này xuất hiện khi được hỗ trợ bởi mặt đất; ngay cả như
vậy, thể hiện dưới trí tuệ hoàn hảo, 5 ba la mật trụ ở toàn giác,
những ba la mật này nảy nở nhờ sự hỗ trợ từ trí tuệ hoàn hảo, và
vì được nâng đỡ bởi trí tuệ hoàn hảo, chúng được gọi là hoàn hảo.
Do vậy, chính nhờ trí tuệ hoàn hảo kiểm soát, dẫn dắt 5 ba la mật
này.
5 Những lợi ích khác của trí tuệ hoàn hảo
Sakra:Cho đến bây giờ Phật Ngài vẫn chưa diễn tả hết giá trị
của trí tuệ hoàn hảo, những giá trị có được của người học, tụng
trí tuệ hoàn hảo. Vì làm sao mà những hiểu biết ít ỏi về trí tuệ
hoàn hảo của con từ Phật để lưu truyền được vận dụng để khiến
ngoại đạo và Ma quân thoái lui?
Phật: Đúng như vậy, Kausika. Hơn thế nữa, không chỉ có học,
tụng trí tuệ hoàn hảo mà 1 người có thể có được những giá trị
này, mả cả những người tôn trọng, tập trung vào 1 bản sao của trí
tuệ hoàn hảo được diễn giải, thf cũng có được những lợi ích ngay
tại đây và bây giờ.
Sakra: Con cũng bảo vệ những người tập trung vào 1 bản sao của
trí tuệ hoàn hảo, hơn nữa là người học, và tụng trí tuệ hoàn hảo.
Phật: Đúng lắm, Kausika, hơn thế nữa, những người tụng trí tuệ
hoàn hảo này thì có hàng trăm chư Thiên đến gần, hàng ngàn, trăm
ngàn chư thiên cùng đến để nghe Pháp. Và khi nghe Pháp thì những chư
thiên này đều muốn nói qua người thuyết Pháp. Mặc dù người này không muốn nói, những
chư Thiên này vẫn mong muốn, vì lòng tôn trọng với Pháp, thúc đẩy ý
định muốn nói, và người này được thôi thúc để nói Pháp. Đây cũng
là một giá trị mà người này có được bằng cách học và tụng trí
tuệ hoàn hảo. Hơn nữa, những người nói về trí tuệ hoàn hảo thì tâm
không sợ sệt trước 4 chúng. Họ không sợ có người xấu đặt câu hỏi
ác. Bởi vì trí tuệ hoàn hảo bảo vệ người này. Chìm trong trí tuệ
hoàn hảo, người này không thấy có thái độ thù địch nào, hay có ai
có ý tưởng như vậy. Qua cách này, người này được nâng lên bởi trí
tuệ hoàn hảo, không bị tác động bởi khiển trách và sợ sệt. Những
giá trị này người này có được nhờ học và tụng trí tuệ hoàn hảo
ngay trong lúc này. Hơn thế nữa, người này thân thiện yêu thương cha
mẹ, bạn bè, quyến thuộc, đồng hữu, Shramana và Brahmana. Người này
có khả năng chối bỏ, vẫn tuân theo pháp, những lời nói chống lại
(counter argument) và những câu hỏi chống lại. Những khả năng này
người này có được nhờ học và tụng trí tuệ hoàn hảo. Hơn thế nữa,
Kausika, trong số chư thiên của Tứ Đại Thiên Vương, có vị nào muốn đạt
đến Bodhi, quyết định đến nơi mà người này đặt 1 bản sao của trí
tuệ hoàn hảo, và cũng tôn trọng và tập trung vào trí tuệ hoàn hảo.
Những vị này đến, xem xét bản sao trí tuệ hoàn hảo, chào cung kính,
kính lễ, học, tụng. Và những vị này ra đi. Điều này đúng với hết
thảy các chư Thiên, ngay cả chư thiên cao nhất cũng vậy. Thiện nam hay
thiện nữ cầu nguyện chư Thiên, Rồng, Dược xoa, Càn thát bà, Atula, Ca
lầu la, Khẩn na la, Ma hô lạc già, người và ma (phi nhân), ở tận 10
phương vô số thế giới, nhờ sức lực của cuốn sách này mà thấy được
trí tuệ hoàn hảo, đều chào kính cẩn, hành lễ, học, và tụng như
vậy. Và họ cũng trở về thế giới của họ, và họ cũng hiến tặng
những người này món quà pháp. Đừng nên nghĩ Kausika, là chỉ có 4 bộ
châu này thôi, mà cả chư thiên cõi dục giới và sắc giới, những ai
muốn đến với Bodhi, thì cũng đều đến nơi này. Kausika, cũng không nên
nghĩ chỉ có vậy! Tất cả chư thiên trong Tam thiên đại thiên cũng đến
nơi này. Họ đến, nhìn vào bản sao trí tuệ hoàn hảo này, chào kính
cẩn, làm lễ, học và tụng. Hơn nữa, nhà cửa, phong hay cung điện của
những ai đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo thì cũng được canh gác
cẩn mật. Không ai dám làm hại những người như vậy, ngoại trừ nghiệp
quá khứ. Đây cũng là một giá trị có được tại đây và bây giờ. Vì
chư Thiên rất có quyền thế, những nhân vật siêu nhiên cũng đến nơi đây.
Phật: Khi người này nhận thấy ở đâu có ánh sáng hào quang hay
hương thơm siêu nhân chưa từng ngửi thấy bao giờ, người này biết có
mọt chư thiên hay người siêu nhiên đang hiện hữu. Hơn nữa, những thói
quen sạch sẽ và thanh tịnh thu hút những vị chư Thiên, và làm họ
thích thú, vui mừng và say mê. Nhưng những chư thiên lực yếu, khi đến
nơi này rồi, thì ra đi. Bởi vì họ không chịu được sự sáng chói, uy
nghiêm, và cao trọng của những vị chư Thiên rất mạnh, vv. Khi những vị
chư Thiên rất mạnh này thường lui đến chỗ người này, những người theo
con đường trí tuệ hoàn hảo này càng tin tưởng thanh tịnh hơn. Đây
cũng là một lợi ích mà người theo con đường trí tuệ hoàn hảo gặt
hái được. Hơn thế nữa, người này không có thói quen bất tịnh xung
quanh khu vực nơi trú ẩn của người chỉ dẫn pháp; nếu không thì người
này vẫn chưa kính trọng đầy đủ pháp này. Hơn nữa, những người theo
con đường trí tuệ hoàn hảo không cảm thấy mệt nhọc thân hay tâm. Khi
nằm xuống thì thoải mái, khi đi lại cũng dễ dàng. Khi ngủ thì không
nằm mơ thấy điều dữ, mà chỉ thấy Phật, Tháp, hay Bồ Tát, hay đệ tử
của Phật. Khi nghe âm thanh gì, người này chỉ nghe thấy âm thanh hoàn
hảo và cánh đưa đến Bodhi, người này chỉ thấy cây Bồ đề (Bodhi), và
dưới cội cây này là Phật, đã hoàn toàn giác ngộ. Và người này thấy
Phật chuyển pháp luân. Và có nhiều Bồ Tát đứng xung quanh chiêm
ngưỡng, tụng riêng trí tuệ hoàn hảo này, vui mừng bởi các khúc
nhạc, tán dương bằng cách nào mà toàn giác được đạt đến, làm cách
nào để thanh tịnh cõi Phật, Người này được chỉ cho thấy phương tiện
khéo léo. Người này này nghe âm thanh tuyệt hảo của Phật, của Bodhi:
Ở phương này, ở khu vực này, ở thế giới hệ này, dưới tên này thì
Phật chỉ giáo pháp, vây quanh bởi chúng đệ tử và vô số ức Bồ tát
và Thanh Văn. Khi người này nằm mơ như vậy thì người này ngủ ngon,
thức dậy cũng dễ dàng. Ngay cả khi có thức ăn vào thì cơ thể người
này vẫn thấy nhẹ nhàng. Người này không nghĩ mênh mang vì ăn uống
quá độ. Người này ít thích ăn. Người đi trên con đường trí tuệ hoàn
hảo thì không ham ăn, và chỉ thích một ít. Ngay cả thiền sư học Yoga
thì khi xuất thiền thì tâm thức vẫn hướng theo những sở thích khác.
Vì người này cống hiến tới trí tuệ hoàn hảo thì nhừng ấy chư thiên
sẽ cung cấp cho họ thiên thực. Những giá trị này người này cũng có
được những lợi ích này. Nhưng lại nữa, Kausika, nếu có người sao
chép trí tuệ hoàn hảo, cung kính và tập trung vào trí tuệ hoàn hảo
nhưng không học, tụng hay ứng dụng điều này, và một người khác thật
sự tin tưởng vào trí tuệ hoàn hảo, thổ lộ, chăm chú tập trung vào
trí tuệ hoàn hảo, thanh tịnh trong niềm tin, thì tâm người này hướng
đến Bodhi, chân thực muốn nghe, học, giữ trong trí, tụng và học những
gì mà trí tuệ hoàn hảo cung cấp, lưu truyền, giải thích và tụng như
vậy, làm sáng tỏ nghĩa cho người khác, khai thác ý nghĩa, truy cứu
bằng tất cả tâm trí, và dùng trí thông minh hết mức có thể, chăm
chú kiểm tra, sao chép và cất giữ đi bản sao để Pháp tồn tại lâu
dài, để người dẫn đường đến Phật đạo không bị ẩn mất, để pháp tốt
không bị mất đi, để Bồ Tát, vĩ nhân tiếp tục được giúp đỡ, vì
người dẫn đường của họ không mỏi mệt, và cuối cùng là tôn trọng và
thờ cúng trí tuệ hoàn hảo này, Kausika, người này có công đức rất
khác biệt. Người nào muốn có được những khả năng xuất sắc tại đây
và bây giờ thì phải gắng sức bắt chước những người như vầy, và
những người này thật sự tin tưởng vào trí tuệ hoàn hảo, vv vì
người dẫn đường của họ không mỏi mệt. Người này chia sẻ cho bất cứ
ai muốn được như vậy. Vì vậy con mắt của người dẫn đường của Phật
không mỏi mệt, và người này cũng vậy, hay những ai khác đang đi trên
con đường của đạo hạnh. Hơn nữa trí tuệ hoàn hảo này thì luôn luôn
được tôn trọng và suy nghĩ tập trung bằng sự tôn trọng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét