Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

1-3

Trí Tuệ hoàn hảo
Chương 1
Thực hành trí tuệ của mọi phương tiện
1 Giới thiệu
Như vậy tôi nghe, Đức Phật tại thành Vương Xá, đỉnh Thứu Phong, cùng với Đại Hội 1250 người, toàn là A La Hán, cấu nhiễm đã trừ, hoàn toàn kiểm soát, tự tại trong tâm, trí tuệ, thuần khiết, những việc cần làm đã xong, hoàn tất, xả bỏ những gánh nặng, sự ràng buộc đã cởi bỏ, Tâm trí thư thái vì suy nghĩ đúng, hoàn toàn kiểm soát được tâm thức, ngoại trừ một người và Ngài A Nan
Đức Phật bảo Subhuti (Tu Bồ Đề), Trưởng Giả: Hãy làm sáng tỏ, Subhuti, Bồ Tát, khởi đầu bằng trí tuệ hoàn hảo, làm cách nào mà đi đến được trí tuệ hoàn hảo!
Tới đây Ngài Sariputra (Xá Lợi Phất) suy tư: Vậy ngài Subhuti sẽ diễn giải trí tuệ hoàn hảo của chính mình, bằng chính sức lực của mình hay là nhờ thần lực của Phật?
Ngài Subhuti, biết chính xác nhờ thần lực Phật, rằng Ngài Sariputra đang đi trên con đường sáng suốt, nói với Sariputra: Tất cả, Sariputra, mà Đệ Tử của Phật nói, đều là nhờ công sức của Tathagata (Phật). Ở Pháp (Dharma) mà Ngài nói, những người tận tụy rèn luyện và nhận thức được tánh tự nhiên, và luôn giữ trong tâm trí. Ở đây mọi việc được giảng giải đều không trái với tánh tự nhiên của pháp.
2 Xóa bỏ cái tôi
Lúc này Ngài Subhuti, bắng sức của Phật, liền nói với Phật: “Phật nói, Hãy làm sáng tỏ, Subhuti, Bồ Tát, khởi đầu bằng trí tuệ hoàn hảo, làm cách nào mà đi đến được trí tuệ hoàn hảo!.” Khi nói đến Bồ Tát thì chữ Bồ Tát này nhắc đến Pháp nào? Thưa Ngài, con không thấy có Pháp Bồ Tát, hay Pháp nào gọi là trí tuệ hoàn hảo. Vì con không thấy, không nắm bắt, không thấy được pháp Bồ Tát, hay pháp gọi là trí tuệ hoàn hảo, vậy thì con giáo hóa và chỉ dạy Bồ Tát bằng cách nào, và trong trí tuệ hoàn hảo nào? Tuy vậy, thưa Ngài, như đã được chỉ ra, tâm Bồ Tát thì không sợ, không thoái, lại không bất động, không thất vọng hay buồn bã, không lùi bước, không run sợ, không hoảng sợ, chính là vị Bồ Tát này, người vĩ đại này sẽ được chỉ giáo vào đến trí tuệ hoàn hảo. Chính sự việc này được nhận thức là trí tuệ hoàn hảo của Bồ Tát, người thọ nhận trí tuệ hoàn hảo. Là người đứng vững, trí tuệ hoàn hảo chính là sự dạy dỗ cho Bồ Tát…Khi Bồ Tát đi trên con đường của trí tuệ hoàn hảo và đang tự rèn luyện chính mình, người này sẽ tự rèn luyện, bởi vì không tự kiêu ngạo với suy nghĩ về sự chứng Bồ Đề Vô Thượng. Tất cả mọi suy nghĩ đều là vô suy nghĩ, không phải là suy nghĩ, vì trong tánh tự nhiên, suy nghĩ là trong suốt và sáng tỏ.
Sariputra: Suy nghĩ này, được nói là vô suy nghĩ, đây có phải là môt cái gì đó tồn tại?
Subhuti: Đây có phải là một thứ tồn tại, hay có ai có thể biết được cái “này” (here is) hay “không phải cái này” (here is not) trong trạng thái không có suy nghĩ chăng?
Sariputra: Không, không phải thế
Subhuti: Câu hỏi mà Sariputra đặt ra rằng suy nghĩ này, thực ra là không phải suy nghĩ, có phải là một sự vật chăng, có thích hợp không?
Sariputra: Vậy điều gì là trạng thái không có suy nghĩ?
Subhuti: Nó có phải là không có sửa đổi hay không phân biệt chăng?
Sariputra: Subhuti, ông giải thích hay lắm, ông là người mà Phật là người bậc nhất trong số người đứng vững trong sự thanh tịnh. Và để là người bậc nhất trong số người đứng vững trong sự thanh tịnh. Vì lý do này mà Bồ Tát được xem là không thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề, là người không ngừng suy tư đến trí tuệ hoàn hảo. Không kể là người rèn luyện ở mức bậc Thanh Văn Duyên Giác hay Bồ Tát, thì ai cũng lắng nghe trí tuệ hoàn hảo, tập luyện, suy nghĩ trong trí, tụng, học, lưu truyền, và cũng phải rèn luyện và cố gắng trong trí tuệ hoàn hảo. Trong trí tuệ hoàn hảo, người có khéo phải rèn luyện nỗ lực, tập trung suy nghĩ ra tất cả các pháp bao gồm trong đó một Bồ Tát. Trong trí tuệ hoàn hảo, tất cả pháp bao gồm Bồ Tát, mà người này rèn luyện và nỗ lực thì được chỉ rõ một cách chi tiết. Ai muốn đạt đến Bồ Đề đều phải nghe, học, suy nghĩ, tụng, lưu truyền trí tuệ hoàn hảo. Ai người khéo léo thì nỗ lực trong trí tuệ hoàn hảo này, với mục đích tạo xuất (procure) ra tất cả  các pháp bao hàm Bồ Tát.
Subhuti: Vì đệ không tìm ra được từ nào tương xứng với Bồ Tát hay trí tuệ hoàn hảo, đệ phải giáo hòa Bồ Tát nào, trong trí tuệ hoàn hảo nào? Thật là tiếc nếu đệ, không nhận thức được cả hai, sẽ làm xuất hiện hay biến mất một Bồ Tát bằng ngôn từ. Ngay cả vậy, sự thể này, được diễn đạt như vậy, thì đều không tiếp diễn (continuous), lại cũng không vô tiếp diễn (non- ~) , không ngừng trệ (discontinuous), lai cũng không vô ngừng trệ. Và vì sao? Đơn giản vì, nó không tồn tại. Đây là lý do vì sao nó không tiếp diễn (continuous), lại cũng không vô tiếp diễn (non- ~) , không ngừng trệ (discontinuous), lai cũng không vô ngừng trệ. Một Bồ Tát, nếu không sợ sệt khi nghe được điều này từ trí tuệ hoàn hảo thì chính là người không mất đi trí tuệ hoàn hảo, và là người bất thoái chuyển Bồ Tát, đứng vững là vì không đứng, dựa tại nơi nào cả.. Vì vậy, Bồ Tát muốn đi con đường trí tuệ hoàn hảo và rèn luyện như vậy thì không trụ tại hình tướng, cảm xúc, ý nghĩ, bản năng động lực (impulse), ý thức (consciousness), chính vì điều này, người trụ tại hay suy xét về hình tướng vv người này sẽ chỉ đi trên con đường bị lệ thuộc bởi hình tướng và sẽ không đạt được trí tuệ hoàn hảohay cố gắng đi trên con đường này được. Và vì không đạt được trí tuệ hoàn hảo, sẽ không tiến được đến toàn giác, khi người này còn cố nắm bắt những thứ khó nắm bắt (elusive) Trong trí tuệ hoàn hảo, hình tướng, vv không thể nắm bắt được. Vì vậy, không nắm bắt hay dựa vào hình tướng, vv đều không phải hình tướng, vv, và trí tuệ hoàn hảocúng không thể bắt lấy được.  Chính vì điều này Bồ Tát đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo. Trực giác tập trung của Bồ Tát được gọi là không nắm bắt tất cả các pháp. Nó quả thật là rộng lớn, cao siêu, vô hạn, bất biến, điều mà Thanh Văn Duyên Giác không có được. Tất cả mọi tri thức không thể nắm bắt được, vì nó không thể được biết đến nhờ các dấu hiệu. Nếu tất cả tri thức đều có thể biết được nhờ dấu hiệu chỉ dẫn, Srenika sẽ không tin vào lời dạy và truyền thống chúng ta. Srenika tin tưởng hoàn toàn vào trí biết tất cả tri thức, và là người đi theo niềm tin, anh ta bước vào trí biết (cognition) với tầm nhìn thu nhỏ. Anh ta không nắm lầy ngũ uẩn, không nhìn lại trí biết với sự thích thú và khoái chí. Anh ta nhìn nhận điều này không ở tướng trong, lại cũng không ở tướng ngoài, lại cũng không cả trong lẫn ngoài, lại cũng không từ điều gì đó khác với ngũ uẩn. Ở đoạn Kinh này, Srenika, một người tin tưởng tuyệt đối vào trí biết tất cả, người được gọi là người đi theo niềm tin. Anh ta lấy thực tánh của pháp làm chuẩn mực, tin tưởng tuyệt đối vào vô tướng (signlessness), cho đến mức không nắm lấy bất kì pháp nào, không thấu triệt (apprehend) pháp nào mà anh ta có thể nắm lấy hay thả đi. Anh ta không quan tâm đến Niết Bàn (Nirvana). Đây được biết là trí tuệ hoàn hảo của Bồ Tát, vì không nắm lấy ngũ uẩn, và không đến Nirvana nửa chừng trước khi nhận biết được 10 lực của Phật, 4 địa của sự tự tin, và 18 pháp đặc thì của Phật. Đây cũng được gọi là trí tuệ hoàn hảo của Bồ Tát, hơn nữa, Bồ Tát đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo và rèn luyện như vậy thì suy xét và ngẫm nghĩ trí tuệ hoàn hảo là gì, ai thể hiện trí tuệ hoàn hảo, và về trí tuệ hoàn hảo như pháp, vốn không tồn tại, và không thể bắt giữ.  Chỉ khi những suy nghĩ này tạo thành một loại nghĩa không mô tả được (wordless sense), và không làm người nghi ngờ và sợ sệt thì mới đúng là Bồ Tát nắm giữ được trí tuệ hoàn hảo.
Sariputra: Làm sao mà Bồ Tát được biết đến như là được trí tuệ hoàn hảo tiến đến, vì tướng vốn không sở hữu sự tồn tại riêng biệt của hình tướng, và cũng vậy đối với uẩn còn lại. trí tuệ hoàn hảo cũng không sở hữu chính sự riêng biệt của trí tuệ hoàn hảo. (own being of perfect wisdom), và tất cả trí tuệ cũng không sở hữu chính sự riêng biệt của trí tuệ toàn giác?
Subhuti: Đúng vậy, Sariputra, Hình tướng không sở hữu bản thể riêng biệt của hình tướng, cũng vậy đối với các uẩn còn lại. Trí tuệ hoàn hảo không sở hữu dấu hiệu nào của trí tuệ hoàn hảo. Dấu hiệu cũng không sở hữu tính độc lập của dấu hiệu. Mọi sự có dấu hiệu đều không sở hữu bản tính của sự có dấu hiệu, và chính vì vậy điều này vốn được xem như là bản thể riêng biệt thật không có dấu hiệu của sự sở hữu riêng biệt, cũng giống như vậy đối với hình thù, âm thanh, suy nghĩ, ngôn từ hay lý thuyết, người hay đồ vật.
Sariputra: Ngay cả như vậy, Bồ Tát rèn luyện trong sự rèn luyện này thì có đến được kiến thức toàn giác không?
Subhuti: Người như vậy đúng là đến được. Vì tất cả pháp đều không từ đâu sinh ra, không đi đến đâu. Khi Bồ Tát đi như vậy thì đến gần tới toàn giác (all knowledge). Người đến gần tới toàn giác thì thân, ý và dấu hiệu đều là toàn thuần khiết, vì ích lợi của người đã trưởng thành, và gặp được Phật. Chính vì vậy Bồ Tát đến gần tới trí tuệ hoàn hảo thì đến gần đến toàn giác.
Subhuti nói thêm: Người đi trên con đường dẫn dắt bởi dấu hiệu của ngũ uẩn, hay dấu hiệu cũng như ngũ uẩn, hay ý nghĩ rằng “hình tướng chính là dấu hiệu” hay sự sản xuất của hình tướng, hay sự ngừng trệ hoặc phá hủy của hình tướng, hay nghĩ rằng, “hình tướng vốn trống rỗng”, hay “tôi đi”, hay “tôi là Bồ Tát”. Vì một người chỉ đi theo ý nghĩ “tôi là Bồ Tát” làm căn bản. Hay, người này nghĩ “người nào đi trên con đường như vậy là đi con đường của trí tuệ hoàn hảo và đang củng cố nó”, người nay này chỉ đi theo những dấu hiệu. Những Bồ Tát như vậy là không khéo léo phương tiện.
Sariputra: Vậy Bồ Tát phải đi như thế nào mới đúng là đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo?
Subhuti: Người này không dựa vào ngũ uẩn, hay dấu hiệu nào của ngũ uẩn, hay ý tưởng rằng, ngũ uẩn là dấu hiệu, hay là sự tạo ra ngũ uẩn, hay là sự phá hủy của ngũ uẩn, hay ý nghĩ rằng ngũ uẩn vốn rỗng không hay “tôi đi”, hay “tôi là Bồ Tát”. Và người này cũng không nghĩ rằng người nào đi trên con đường như vậy là đi con đường của trí tuệ hoàn hảo và đang củng cố nó”. Người này đi như vậy nhưng không nghĩ rằng ‘tôi đi’, “tôi không đi”, “tôi đi và tôi không đi”, “tôi không đi, cũng không không đi”, và cũng vậy “tôi sẽ đi”. Một người không tiến đến pháp được vì tất cả các pháp đều là không tiến gần được và không thể nắm bắt được. Vì vậy, Bồ Tát chỉ suy nghĩ thuần khiết và không phân biệt suy nghĩ “không nắm bắt tất cả các pháp qua tên gọi hay hình thức, không quan trọng là rộng lớn, cao cả, vô biên và bất động, không có chung với Thanh Văn hay Duyên Giác. Khi tập trung suy nghĩ như vậy, Bồ Tát nhanh chóng nhận thức Bồ Đề (Bodhi), Đức Phật lúc này thọ ký cho  người này. Nhưng khi người này ở trong sự tập trung suy tư như vậy, người này không nghĩ rằng “tôi bình tĩnh”, “tôi sẽ vào tập trung”, “tôi sẽ vào sự tập trung”, “tôi đã vào sự tập trung”, “tôi đang tiến vào sự tập trung”. Tất cả những suy tưởng và nhận xét đều không tồn tại đối với người này.
Sariputra: Vậy một người có thể diễn đạt những suy nghĩ trên hay không?
Subhuti: Không, Sariputra, vì tất cả thiện nam thiện nữ không thể biết hay nhận thức được điều này.
Sariputra: Đệ nói là không ai có thể biết hay nhận thức được điều này?
Subhuti: Đúng vậy, vì những suy nghĩ như vậy là không tồn tại.
Phật: Nói đúng lắm, Subhuti. Và như vậy Bồ Tát rèn luyện như vậy, chính là người rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo.
Sariputra: Người như vậy đi trong trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Người như vậy đi trong trí tuệ hoàn hảo
Sariputra: Người như vậy rèn luyện theo pháp nào?
Phật: Người này không rèn luyện theo pháp nào cả, pháp không tòn tại theo nghĩa mà người không có rèn luyện nghĩ.
Sariputra: Vậy pháp tồn tại theo nghĩa nào?
Phật: Chính vì pháp không tồn tại nên pháp mới thật tồn tại. Và vì không tồn tại nên người không khéo nghĩ như vậy là vì vô minh. Mặc dù không tồn tại nhưng những người này tạo ra pháp. Mặc dù đã tạo ra pháp nhưng người này ở trên 2 thái cực, người này không biết hay thấy sự thể thực của pháp. Dựa vào sự liên quan này làm cơ sở, người này tạo ra quá khứ, vị lai, hiện tại. Và bây giờ, khi đã được tạo ra, những pháp này lắng xuống theo tên gọi và hình tướng. Chính những sự tạo lập này của pháp, vốn dĩ không tồn tại, và những người này không biết hay thấy con đường thực sự theo nghĩa đúng của nó. Vì lý do này, họ không thoát khỏi Tam đồ (triple world), và không nhận thức được ra giới hạn của thực thể (reality limit). Chính vì vậy họ là những người vô trí. Những người này chỉ ra niềm tin nhưng không đúng cho mình và cho người khác, không như theo tính chất thật sự của pháp. Nhưng Bồ Tát không dừng chân tại bất cứ pháp nào.
Sariputra: Khi một người luyện tập như vậy, thì Bồ Tát có phải là đang rèn luyện trong toàn giác không?
Phật: Khi một người rèn luyện như vậy, Bồ Tát không rèn luyện trong toàn giác, nhưng rèn luyện trong tất cả các pháp. Khi rèn luyện như vậy, Bồ Tát rèn luyện nơi toàn giác, và tiến gần đến gần tới nơi này.
 Subhuti: Thưa Ngài, có người hỏi, Vậy người giả tưởng (illusory) này có rèn luyện trong toàn giác không, có tiến gần nó không, có đi đến nó không? Làm sao để giải thích được điều này?
Phật: Ta sẽ hỏi một câu hỏi đối lại, cứ trả lời theo khả năng của mình.
Subhuti: Đúng vậy, thưa Thế Tôn, và Subhuti lắng nghe câu hỏi của Phật.
Phật: Vậy ông có nghĩ, Subhuti, ngũ uẩn (hình tướng…) là một việc, còn ảo tưởng là một việc không?
Subhuti: Không, thưa Ngài, thật không phải ảo tưởng là một sự, còn ngũ uẩn là một việc khác; chính hình thể này là ảo tưởng, còn ảo tưởng này thì là hình thể.
Phật: Ông có nghĩ, Subhuti, chính từ ‘Bồ Tát’ này, sự diễn đạt này đều là do ngũ uẩn mà thành không?
Subhuti: Đúng vậy. Bồ Tát rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo thì xem mình như là người không có thật (illusory) để đạt đến Bodhi. Người này giữ trong tâm trí rằng 5 uẩn này chính là con người ảo tưởng này. Phật nói hình tướng chính là ảo tưởng. Và vì đây là đúng đối với hình thức, nó cũng đúng đối với 6 giác quan, và ngũ uẩn.
Subhuti: Những Bồ Tát mới phát tâm có run sợ không trước những lời nói này?
Phật: Những ai run sợ trước những lời nói này là bị ảnh hưởng bởi ác tri thức, không phải là thiện tri thức.
Subhuti: Vậy ai là thiện tri thức của Bồ Tát?
Phật: Những ai giáo hóa trên con đường của sự hoàn hảo. Những ai chỉ ra cho Bồ Tát những hành động của Ma, nói rằng “đây là những sai phạm và hành động của Ma, hãy loại trừ chúng ngay khi nhận ra được.  Những người này là thiện tri thức của Bồ Tát, mặc áo giáp và bước đi trên Đại thừa (great vehicle), và cưỡi trên Đại Thừa.
3 Ý Nghĩa của Bồ Tát:
Subhuti: Khi Ngài nói Bồ Tát, vậy nghĩa này là gì?
Phật: Khi nói đến từ này có nghĩa là không có gì thực cả. Bồ Tát rèn luyện bằng cách không dựa vào bất kì pháp nào cả. Bồ Tát nhận thức sự không gắn kết với Bodhi, với nghĩa là người này hiểu được tất cả các pháp. Vì người này có mục tiêu là Vô Thượng Bodhi, người này được gọi là Bồ Tát (Bodhisattva)
4 Ý nghĩa của Vĩ Nhân
Subhuti: Vậy khi Ngài nói Bồ Tát là Vĩ Nhân, vì lý do gì mà được gọi như vậy?
Phật: Những Bồ Tát nào được gọi là Vĩ Nhân khi được hiểu là diễn đạt và tiết lộ cho vô số người đến với sự nhận thức vô hạn
Sariputra: Vậy con đã rõ vì lý do nào mà Bồ Tát được gọi là Vĩ Nhân
Phật: Hãy nói rõ những gì ông nghĩ!
Sariputra: Tất cả Bồ Tát được gọi là vĩ nhân khi hiểu được là biết rõ các pháp như sự thật, diễn đạt như thật các pháp. Những lỗi lầm nhỏ đã diệt trừ-những suy nghĩ như nhĩ có cá thể, cái tôi, linh hồn, người, có trở thành, có không trở thành, có diệt, có vĩnh hằng, có biệt lập, những suy nghĩ sai biệt về sự vật hay người thuộc về những thừa hưởng độc lập, hay như vậy có thể mất đi những đặc tính được gán cho sự thừa hường đó.
Subhuti: Son cũng hiểu vì sao Bồ Tát được gọi là Vĩ Nhân
Phật: Hãy nói rõ hơn xem!
Subhuti: Tất cả Bồ Tát được gọi là vĩ nhân khi không còn dựa vào và không vướng mắc vào những suy nghĩ về Bodhi, suy nghĩ về toàn giác, suy nghĩ khi không còn cấu nhiễm, những suy nghĩ Vô Thượng hay tương đương với Vô Thượng, hay suy nghĩ liên quan hay không liên quan đến Thanh Văn hay Duyên Giác. Tất cả những suy nghĩ về toàn giác (all knowledge) thì đều không còn cấu nhiễm, và không bao gồm trong thế giới. Nói về toàn giác và những suy nghĩ vô cấu và không bao gồm (unincluded), người này không lệ thuộc vào và cũng không bị chi phối (uninvolved). Khi hiểu được như vậy thì Bồ Tát được biết đến như là Vĩ Nhân.
Sariputra: Vì lý do nào mà người này không dựa vào ngay cả suy nghĩ này, và không bị chi phối bởi nó?
Subhuti: Chính vì vậy, đây không phải là suy nghĩ.
Sariputra: Vậy suy nghĩ này, vốn là không suy nghĩ, có phải là 1 sự thể không?
Subhuti: Bây giờ có thực sự tồn tại không, hay có người nào có thể, trong trạng thái không có suy nghĩ, biết được “bây giơ là đây” hay “bây giờ không phải”?
Sariputra: Không, ngay cả cái này
Subhuti: Vậy làm sao Ngài Sariputra có thể hỏi, hay nói, “suy nghĩ này, vốn không phải là suy nghĩ, có phải là thứ gì đó chăng?
Sariputra: Ngài giải thích vậy đúng lắm, Ngài là người được Phật khen là tối thượng, trụ trong nhu hòa.
Lúc này, Purna, con trai của Maitrayani, nói với Phật: Đúng là một Vĩ Nhân khi người này mặc áo giáp, đi trong đại thừa, cưỡi trên đại thừa. Đây là lý do người này được gọi là Vĩ Nhân.
Subhuti: Người này vĩ đại đến mức nào mà được gọi là mặc áo giáp?
Phật: Lúc này Bồ Tát suy nghĩ: Có vô số người được ta dẫn dắt đến Nirvana, tuy vậy thật không có ai dẫn dắt đến Nirvana, và cũng không có ai được dẫn dắt. Mặc dù có nhiều người được dẫn đến Nirvana, không có ai được dẫn đến, hay có ai dẫn những người này. Vì vậy đây chính là thực chất của pháp, nhìn nhận như vậy thì biết là ảo tưởng. Subhuti, giống như nhà ảo thuật, hay người học thuật, biến hiện ở ngã tư một đám đông người, và rồi làm họ biến mất…Ông nghĩ sao, Subhuti, có ai bị giết đi hay bị phá hủy, hay bị làm cho biến mất đi không?
Subhuti: không, thực là không
Phật: Cũng như vậy, Bồ Tát, 1 Vĩ nhân, dẫn dắt vô số chúng sanh đến  Nirvana, mặc dù vậy cũng không có ai được dắt đến, không có ai dắt người đó đến. Nghe được điều này mà không sợ sệt thì Bồ Tát này chính là mặc áo giáp vĩ đại
Subhuti: Theo như con hiểu lời nói của Phật thì không phải là mặc áo giáp mà Bồ Tát được biết đến như là vĩ nhân.
Phật: Đúng như vậy, Cũng như toàn giác không được tạo ra, không bất tạo, không bị ảnh hưởng. Những người mặc áo giáp như vậy để cứu vớt người khác thì không được tạo ra, không bất tạo, không bị ảnh hưởng.
Subhuti: Đúng như vậy. Vì ngũ uẩn đều không bị trói buộc, cũng không được giải thoát, và điều này cũng đúng với sự thể của hình tướng, cảm xúc, suy nghĩ, phản xạ, ý thức.
Purna: Nhưng bây giờ thì hình tướng mà đệ nói không bị ràng buộc, cũng không được giải thoát, cái nào là sự thể của hình tướng?
Subhuti: Hình tướng của tất cả những người vốn không thực thì không bị ràng buộc hay giải thoát. Thực sự là, nó không có mặt ở đây, nó là tách biệt, không được sinh ra. Đây chính là áo giáp, áo giáp không phải áo giáp của Bồ Tát, vĩ nhân, được trang bị áo giáp, đi trên con đường đại thừa, cưỡi trên đại thừa.
Sau những lời nói này, Ngài Purna im lặng
5 Ý nghĩa của Đại thừa
Subhuti: Đúng vậy, thưa Ngài, Bồ Tát, Vĩ nhân mặc áo giáp, đi đến Đại thừa, cưỡi trên đại thừa. Nhưng Đại thừa là gì? Làm sao để biết ai đi trên đại thừa này? Khi nào thì phương tiện này đến và đi? Ai hay cái gì đi trên ấy? Đứng ở đâu? Ai là người tiến về trước nhờ Đại thừa?
Phật: Đại thừa là đồng nghĩa với sự không thể đo lường. Không đo lường là vô hạn, và vì thế không có thứ gì có thể định ra được sự đo lường này bằng tên gọi hay số lượng để biết được nó là thế nào hay nhiều thế nào. Bằng sự hoàn hảo, Bồ Tát bước đi. Từ Tam thế giới này mà ra đi. Người này đi đến nơi không có sự vật nào để bám víu. Bồ Tát là như vậy, là một vĩ nhân bước đi, nhưng không đi đến nơi nào. Và cũng không đặt ra mục tiêu là không trụ ở bất cứ nơi nào, nhưng lại đến được với toàn giác bằng cách không đứng ở đâu cả. Va cuối cùng, bằng phương tiện này, không ai ra đi, không ai đã ra đi và sẽ ra đi. Vì không có pháp nào tồn tại-người ra đi và phương tiện để ra đi, đều không thể nắm bắt được. Chính vì tất cả các pháp không tồn tại, pháp nào ra đi được nhờ vào  pháp nào? Như vậy Subhuti, Bồ Tát, vĩ nhân mặc áo giáp và bước đi trên đại thừa
Subhuti: Phật nói đến đại thừa. Vượt trên thế giới với những chư thiên, người, Atula, phương tiện này ra đi. Nó như không gian, và to lớn vô cùng. Cũng như không gian, phương tiện này là chỗ chứa cho vô số người. Phương tiện Bồ Tát này vĩ đại như vậy. Ta không thể thấy nó đi, đến, hay trụ, không tồn tại. Vì vậy ta không thể biết được điểm đầu và cuối hay giữa. Nhưng nó đều là như nhau ở mọi nơi. Chính vì vậy mà nó được gọi là Đại thừa.
Phật: Đúng lắm, Subhuti, đúng như vậy. Đây chính là phương tiện của Bồ Tát. Rèn luyện bằng phương tiện này mà Bồ Tát đạt đến toàn giác, đã đạt đến và sẽ đạt đến.
Purna: Ngài Subhuti, như được hỏi về trí tuệ hoàn hảo, nghĩ rằng Đại thừa có thể được chỉ ra.
Subhuti: Thưa Ngài, khi nói đến đại thừa thì có làm sai với trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Không. Theo nghĩa của trí tuệ hoàn hảo ông đã chỉ ra đại thừa.
6 Thành quả
Subhuti: Bằng thần lực của Phật, Bồ Tát đi trên phương tiện này không đạt đến quả vị Bồ Tát lúc đầu, cuối, hay giữa. Bồ Tát thì rộng lớn vô biên như hình, xúc, ý, thức, phản xạ. Không nên tiến đến kết luận là Bồ Tát chính là 1 hình tướng. Sự thể này không tồn tại, và không thể nắm bắt được. Vì vậy ở bất kỳ quan điểm nào thì con không đến với bất kỳ pháp nào mà trong đó bao gồm 1 Bồ Tát, con cũng không thấy pháp nào mà trong đó từ Bồ Tát ám chỉ. Trí tuệ hoàn hảo thì không thể thấy được và cũng không nắm bắt được. Toàn giác thì cũng không thể thấy hay nắm bắt được. Cũng giống như ở mọi cách mà pháp có thể thấy được và nắm bắt được-Vậy ta cần giáo hóa và chỉ dạy bằng pháp nào, trong pháp nào? ‘Phật’, “Bồ Tát”, “trí tuệ hoàn hảo”, tất cả đều là ngôn từ. Những sự thể mà những từ này biểu đạt đều không được tạo ra. Cũng giống như suy nghĩ về cái tôi. Mặc dù chúng ta nói đến cái tôi, mặc dù vậy thì tất cả cá thể đều là những thứ không được tạo ra. Vì ở đây tất cả các pháp đều không có cái riêng biệt độc lập của chính nó, cũng vậy nó không được tạo ra. Mặc dù vậy thì sự vô sinh (non creation) của tất cả các pháp đều khác biệt với những pháp này. Làm cách nào mà con có thể giáo hóa sự vô sinh bằng sức trí tuệ hoàn hảo khi mà trí tuệ hoàn hảo cũng là không được tạo ra? Mặc dù vậy ta không thể nắm bắt được pháp là một cái gì đó không phải vô sinh, bất luận là đây có phải là suy nghĩ bao gồm Phật, Bồ Tát, hay người đang đi đến Bodhi. Nếu Bồ Tát nào khi nghe những điều này mà không sợ hãi thì ta biết là vị này đang đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo, đang rèn luyện, phát triển trên phương diện này. Vào thời điểm này thì Bồ Tát truy xét những pháp này qua trí tuệ hoàn hảo, vào thời điểm này thì Bồ Tát này không đến với hình tướng hay các uẩn khác. Người này cũng không xem những hình tướng như là được sinh ra, hay bị dừng lại. Bởi vì sự không sinh (non production) của hình tướng ,vv đều không phải là hình tướng, vv. Tất cả những sự không ra đi (non passing away) của hình tướng đều không phải là hình tướng, vv, Sự không sinh và hình tướng đều không phải là 2 thứ riêng biệt, cũng không phải là cách biệt. Khi người nào đó gọi một thứ là hình tướng thì người này nhận định một thứ tách biệt chứ không phải là 2 thứ. Vì vậy, Bồ Tát suy xét trí tuệ hoàn hảo tất cả các pháp bằng tất cả các phương tiện mà nó chỉ ra (any and all modes as such may merely indicate), nhưng người này không bao giờ tiến đến ngũ uẩn làm điểm tựa.
Sariputra: Nếu như đệ hiểu lời nói của Subhuti thì không có Bồ Tát được sinh ra. Nhưng nếu Bồ Tát không sinh ra thì làm sao mà đi trên con đường khó khan này, và làm sao mà chịu đựng được những trải nghiệm khó khăn này vì chúng sinh?
Subhuti: Đệ không tìm một Bồ Tát nào đi trên con đường khó khan, nếu nghĩ là con đường khó khăn thì không phải là Bồ tát. Nếu nghĩ là khó khan thì không thể nào giúp đỡ vì hạnh phúc của người khác.Mặc khác, người này nghĩ là nhẹ nhàng, nghĩ là mọi người đều là cha mẹ con cái của mình, và vì lý do này người này đi trên phương tiện Bồ tát. Bồ Tát luôn suy tưởng mọi chúng sinh đều là cha mẹ con cái của mình, ngay cả bản thân nữa, như vầy: “Như tôi muốn thoát khỏi mọi khốn khổ, mọi người ai cũng muốn hết khổ. Đối với chúng sinh, người nayd cũng nghĩ: Tôi không từ bỏ chúng sinh, tôi ước nguyện sẽ giải thoát vô lượng thống khổ! Và tôi không suy nghĩ đến những suy nghĩ hận thù, cho dù tôi có bị xé ra tram mảnh. Chính như vậy Bồ tát giúp đỡ người khác. Khi một người đã suy nghĩ như vầy thì không nhận thức khó khăn. Và hơn nữa Bồ Tát suy nghĩ “cũng như mỗi cá thể đều không tồn tại, và không tiến đến được thì cũng như vậy pháp thì không tồn tại và cũng không tiến đến được. Người này nghĩ như vậy đối với hết thảy các pháp, trong lẫn ngoài. Khi ngươì này suy nghĩ như vậy thì không bước đi hay suy nghĩ là khó khăn.. Nhưng như Ngài Sariputra nói, Bồ tát không sinh, và đúng như vậy, Bồ tát thì không sinh ra
Sariputra: Hơn nữa, có phải chỉ là Bồ tát không sinh, hay cả pháp có bao gồm Bồ Tát cũng vậy?
Sariputra: Vậy chỉ có pháp bao gồm Bồ Tát thì không sinh, hay là tất cả trạng thái của toàn giác cũng như vậy?
Subhuti: Tất cả trạng thái toàn giác cũng vô sinh
Sariputra: Vậy chỉ có trạng thái toàn giác cũng vô sinh, hay là tất cả các pháp bao hàm điều này?
Subhuti: Pháp trong đó bao gồm toàn giác cũng vô sinh
Sariputra: Vậy chỉ có pháp bao gồm toàn giác vô sinh hay là cả người thường cũng vậy?
Subhuti: Tất cả mọi người thường đều không sinh.
Sariputra: Chỉ có mọi người thường đều không sinh hay cả các pháp bao gồm điều này?
Subhuti: Pháp bao gồm những người thường này cũng không sinh.
Sariputra: Vậy, Subhuti, nếu Bồ Tát là không sanh, cả các pháp bao gồm Bồ Tát cũng vậy, và cả toàn giác, các pháp bao gồm toàn giác, cả người thường và các pháp bao hàm người thường, vậy thì Bồ Tát không nhọc công mà cũng đến được toàn giác sao?
Subhuti: Đệ không muốn cầu thành quả nào của pháp không sinh, và cũng không cầu sẽ hợp nhất với pháp. Hơn nữa, Một người có thể đạt đến thành quả vốn không sinh ra qua pháp vốn không sinh ra hay không?
Sariputra: Vậy thì thành quả vốn không sinh được đạt đến từ pháp có sinh ra hay từ pháp vốn không sinh?
Subhuti: Vậy thì pháp vốn không sinh có sinh ra không, hay là không sinh?
Sariputra: Vậy thì sự sinh ra của các pháp là vốn không sinh, hay là sự không sinh của các pháp là sự sinh?
Subhuti: Nếu nói đến sự sinh ra là sự không sinh của pháp thì không thể hiểu nổi.
Sariputra: Nói đến không sinh ra thì cũng không thể hiểu nổi.
Subhuti: Không sinh chỉ là cách nói. Không sinh thì chỉ hiện ra trước mắt của tâm thức. Không sinh chỉ là một chớp nhoáng ở tâm thức, hoàn toàn không là gì hơn.
Sariputra: Người đứng đầu về thuyết pháp chính là Subhuti. Vì có hỏi điều gì thì đệ cũng tìm ra cách giải thích. Đệ không đi chệch hướng của tánh thật của các pháp, không làm trái nghĩa đối với các pháp.
Subhuti: Đây chính là điều cơ bản tuyệt đối của Phật về các Đệ tử, không có tựa trụ, vì vậy ở bất kỳ cách hỏi nào, những người này đều tìm được câu trả lời, không đi ngược với tánh chân thực của pháp, cũng không rời các pháp. Đây chính là điều này, không lệ thuộc vào pháp nào cả.
Sariputra: Nói hay lắm, Subhuti. Vậy sự hoàn hảo nào của Bò Tát thì làm cho những điều này không trụ vào bất cứ pháp nào?
Subhuti:Trí tuệ hoàn hảo, lợi ích cho tất cả 3 thừa, cũng là sự hoàn hảo mà giúp những người này không dựa vào pháp nào, bởi vì bản tính của nó là chỉ ra rằng tất cả các pháp đều không có chỗ dựa và vì vậy, không thể làm chỗ dựa. Nếu Bồ Tát nào không sợ sệt khi điều này được nói ra thì cần phải biết người này đã điều chỉnh theo trí tuệ hoàn hảo, và người này không mất đi sự tập trung vào những thông tin đúng (true facts) về pháp
Sariputra: Vậy làm sao Bồ Tát không mất đi sự tập trung thì tự điều chỉnh theo trí tuệ hoàn hảo? Vì nếu Bồ Tát không mất đi sự tập trung thì người này mất đi sự điều chỉnh uyển chuyển với trí tuệ hoàn hảo, và nếu tự uyển chuyển theo trí tuệ hoàn hảo thì người này thiếu sự tập trung. Nhưng với Bồ Tát mà không thiếu sự uyển chuyển, lại có tập trung, thì tất cả mọi người ai cũng trụ lại nơi trí tuệ hoàn hảo vì người này không mất đi sự tập trung.
Subhuti: Đệ nói hay lắm, nhưng Subhuti vẫn phải khieernr trách đệ, mặc dù Sariputra đã nắm bắt được vấn đề theo văn nghĩa, nhưng cần phải biết là sự tập trung thì không có bản tính riêng biệt, cũng giống như mọi người đều không có bản tính riêng biệt. Sự tập trung không có sự tồn tại thật cũng giống như mọi người đều không có sự tồn tại thật. Sự tập trung thì riêng biệt cũng như mọi người thì riêng biệt, sự tập trung thì không thể nghĩ bàn cũng như mọi người thì không thể nghĩ bàn; những hành động về suy nghĩ trong tâm trí thì không trải qua bất kỳ diễn biến nào để đạt đến Bodhi, cũng giống như mọi người không đi đến quá trình nào, những hành động về suy nghĩ trong tâm trí theo nghĩa thực thì không trải qua bất kỳ diễn biến nào để đạt đến Bodhi, cũng giống như mọi người không đi đến quá trình nào. Đệ hy vọng là Bồ Tát sẽ đi theo con đường này qua sự tập trung như vậy.

Chương II
Sakra
1 Lời tựa
Vào thời điểm này, có nhiều chư thiên đến vân tập tại Đại hội, bao gồm Sakra (Đế Thích), cùng với 40000 chư thiên cõi trời 33, Tứ Đại Thiên Vương, 20000 chư thiên đi theo Tứ Đại Vương; Brahma, Chủ thế giới Ta bà, 5000 chư thiên cõi Thanh Tịnh, dù vậy, thần lực của Phật với oai nghiêm và thế vị đều hơn hết thảy vẻ trang nghiêm của những vị chư thiên này, những thành quả mà những người này đã làm trong quá khứ.
Sakra: Hàng ngàn vị Trời, Subhuti, đã đến ngồi ở đây vì chúng tôi muốn nghe về trí tuệ hoàn hảo thuyết bởi Subhuti, và lắng nghe những lời khuyên của Ngài cho Bồ Tát, về những giáo hóa của ngài về cách mà Bồ Tát đứng vững trong trí tuệ hoàn hảo, làm cách nào để rèn luyện và thực hành.
Subhuti: Hãy để tôi giải thích cho ông, qua thần lực, thế vị, oai nghiêm của Phật. Những vị Thiên, nếu chưa khát vọng Bodhi thì hãy bắt đầu đi. Những người chắc chắn sẽ thoát khỏi thế giới (Alahan) thì đều không tiến đến được Bodhi, vì những người này không muốn về lại sinh tử để cứu vớt mọi người, như lòng từ bi. Vì sao? Vì biển sinh tử giữ những người này lại. Vì không muốn tái sinh nên những người này không đạt đến Bodhi. Mặc dù vậy, họ vẫn có thể muốn đến được tới Bodhi, và tôi bảo đảm như vậy. Tôi không che khuất những căn lành của họ. Bởi vì ai cũng phải đề cao pháp tối thượng là trên hết.
Phật: Đúng vậy, Subhuti, ông đã ủng hộ Bồ Tát rất chính xác.
Subhuti nói với Phật: Chúng đệ tử đều biết ơn Phật, không vô ơn. Vì Phật, ở bên cạnh Phật, đều dẫn dắt tới cuộc sống cao cả, lấy Bodhi làm mục tiêu. Mặc dù người này đã nhận thức được nhận thức của Bồ Tát, đệ tử vẫn giáo hóa anh ta với những sự hoàn hảo như trên, và qua con đường anh ta đi thì sẽ biểu lộ sự biết tột cùng, để lợi ích vô số chúng sanh. Vì vậy chúng con giúp đỡ, tán dương, hỗ trợ và giữ gìn Bồ Tát, vì những người mà chúng con giúp đỡ, tán dương, hỗ trợ và giữ thì sẽ sớm đạt được Bodhi.
2 Làm cách nào để đứng vững trong vắng lặng (emptiness), trong trí tuệ hoàn hảo
Bây giờ, Subhuti nói với Sakra: Hãy lắng nghe, Kausika, và xem xét kỹ trong khi tôi nói cho ông làm thế nào mà Bồ Tát đứng vững trong trí tuệ hoàn hảo. Bằng cách trụ trong vắng lặng thì người này đứng trong trí tuệ hoàn hảo. Bồ Tát mặc áo giáp, rèn luyện để không trụ lại bất cứ đâu, không trụ ở hình tướng,vv (ngũ uẩn), không trụ trên giác quan (mắt, tai vv), thân, ý, không trụ trong ý thức của mắt, vv cho đến không trụ ý thức của tâm, cho đến các thành phần, như nước lửa, đất, gió, thăng hoa, không trụ vào cột của sự nhận thức (mindfulness), tay chân của Đường đi (limbs of the Path); không trụ vào quả Dự lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn hay A la hán, Duyên Giác hay Phật quả. Người này không trụ vào suy nghĩ “đây là hình thức”, “đây là cảm xúc”,vv cho đến “đây là quả vị của Phật”. Người này không trụ lại bất kỳ ý nghĩ như “ngũ uẩn là vô thường hay thường còn”; “ngũ uẩn là xấu  hay tốt”, “ngũ uẩn là tự thân hay không có tự thân”, “ngũ uẩn là dễ hay khó”, hay ngay cả “ngũ uẩn là vắng lặng, hay có thể hiểu như là một thứ gì đó”. Người này không trụ tại những suy ngĩ như thành quả của đời sống cao cả là đáng kính phục vì nó là “Vô điều kiện”. Hoặc là quả Dự lưu thì đáng được cúng dường, và sẽ được tái sinh ít nhất 7 lần nữa. Hay người Nhất Lai thì đáng được cúng dường bởi vì người này không nhận thức đến tận cùng, nên sẽ trở lại thế giới một lần nữa để xả bỏ cấu nhiễm. Hay, Người Bất Lai đáng được cúng dường vì không còn trở lại thế giới nữa và sẽ nhận thức Nirvana ở một nơi khác. Hay, 1 A La Hán thì đáng được cúng dường vì ngay trong hiện tại sẽ đạt được Nirvana và sẽ không để lại bất cứ gì. Hay vị Duyên Giác thì đáng cúng dường và sẽ đạt đến Nirvana khi đã vượt lên khỏi vị Thanh Văn, nhưng chưa đạt đến địa vị của Phật. Hay ngay cả , Phật đáng cúng dường và sẽ đạt đến Nirvana của Phật, ở Nirvana và không để lại gì, khi mà đã vượt lên trên vị thường của con người, trên cả Thanh văn và Duyên Giác, đem lại hạnh phúc cho vô số người, dẫn đến Nirvana vô số ức triệu người, giúp họ đạt quả vị Thanh Văn, Duyên Giác hay Phật vị, đang đứng ở địa vị Phật và làm Phật sự, ngay cả điều này thì Bồ Tát cũng không trụ lại.
Lúc bấy giờ Ngài Sariputra nghĩ: Nếu ngay cả ở đây mà người này không trụ lại thì sẽ trụ thế nào, và rèn luyện thế nào? Ngài Subhuti, đọc được suy nghĩ này nhờ thần lực của Phật, liền nói: Ông nghĩ sao, Sariputra, Phật thì đứng ở đâu?
Sariputra: Phật thì không trụ ở đâu cả. Tâm của Phật không tìm kiếm hay dựa vào một chỗ trụ. Những người như Phật thì không trụ lại nơi có điều kiện, hay nơi vô điều kiện, và Phật cũng không từ những điều này mà sinh ra.
Subhuti: Và cũng như vậy Bồ Tát cũng rèn luyện như vậy. Người này nghĩ như vầy: Vì Phật không trụ ở đâu, cũng không bất trụ, cũng không đứng tách rời, cũng không bất đứng tách rời, chính như vậy tôi sẽ rèn luyện”. Cứ như vậy người này sẽ rèn luyện như vậy. “như Phật đứng trụ như vậy thì tôi cũng đứng như vậy, và rèn luyện như vậy. Như Phật đứng trụ như vậy thì tôi cũng đứng như vậy cũng như không có chỗ để trụ. Khi người này luyện tập như vậy thì là tự điều chỉnh mình về trí tuệ hoàn hảo, và sẽ không bao giờ quên như vậy.
3 Các vị Thánh và mục tiêu của họ đều là ảo tưởng (illusion)
Lúc này những chư thiên suy nghĩ như vầy: “Những gì mà các vị tiên nói và nói thầm, chúng tôi đều hiểu, mặc dù nói thầm, nhưng những gì Subhuti nói chúng tôi không hiểu/” Subhuti đọc được suy nghĩ này và nói: Đây không phải là thứ để mà được hiểu (no-thing to understand) hoàn toàn không phải và một thứ. Không có thứ gì đã được diễn nói, không có thứ gì được giải thích
Lúc này các vị Thiên nghĩ: Mong rằng Ngài Subhuti sẽ giải thích cặn kẽ hơn! Mong rằng Ngài Subhuti sẽ giải thích cặn kẽ hơn! Những gì mà ngài Subhuti nói ở đây diễn giải và dạy bảo thì còn ít biết hơn cái ít biết, khó hiểu hơn khó hiểu, sâu hơn cả sâu. Subhuti đọc được những suy nghĩ này và nói: Không ai có thể đạt được thành quả của cuộc sống cao cả (holy life) hay giữ được nó, từ quả Dự Lưu đến Bodhi, nếu không kiên nhẫn mà chấp nhận điều này: tất cả các pháp khó có thể nắm lấy được (elusive)
Bây giờ các vị Thiên nghĩ: Vậy người nào thế nào thì được nghe những lời nói thâm sâu của ngài Subhuti?” Subhuti đọc được suy nghĩ này và nói: “Những người học được lời nói của tôi thì sẽ giống như là những sự kiến tạo từ ảo thuật ảo tưởng, vì những người này không nghe được những lời tôi nói hay nhận thức được sự thật đang được diễn nói ở đây
Thiên chúng: Mọi người như là ảo tưởng của màn ảo thuật, vậy sự thật có phải là một ảo ảnh không?
Subhuti: Cũng giống như ảo ảnh của ảo thuật, những người này như một giấc mơ, vì ảo tưởng của ảo thuật và chúng sinh như mộng tưởng và chúng sinh đều là một. Tất cả mọi sự thật (objective facts) bị động đều như huyễn hóa, như giấc mơ. Tất cả các vị Thánh, từ Dự Lưu đến Phật đều như huyễn hóa, như giấc mơ.
Thiên: Ông nói ngay cả Đức Phật cũng là huyễn hóa, như giấc mộng? Quả Phật vị thì cũng là huyễn hóa, như giấc mộng chăng?
Subhuti: Ngay cả Nirvana thì cũng là huyễn hóa, như giấc mộng, huống gì những thứ khác.
Thiên: Ngay cả Nirvana thì cũng là huyễn hóa, như giấc mộng?
Subhuti: Nếu có thể có một thứ gì khác tuyệt hảo hơn thì tôi cũng nói đó như huyễn hóa, như giấc mộng. Bởi vì huyễn hóa và Nirvana là 1, giấc mơ và Nirvana là 1
Lúc bấy giờ ngài Sariputra, ngài Purna, con trai của Maitrayani, ngài Mahakoshthila, ngài Mahakatyayana, ngài Mahakashyapa và các đệ tử khác, cùng vời hàng ngàn Bồ Tát hỏi: “Những ai, Subhuti, có khả năng nắm bắt được trí tuệ hoàn hảo khi được thuyết ra?”
Lúc bấy giờ Anan nói: Bồ Tát bất thoái chuyển thì hiểu được điều này, hay những người có cái nhìn đúng đắn, hay A La Hán không còn cấu nhiễm.
Subhuti: Không ai có thể nắm bắt được trí tuệ hoàn hảo, bởi vì không có pháp nào được diễn giải, soi sáng hay truyền đạt. Cũng như vậy, không ai có thể nắm bắt được điều như vậy
4 Hoa của Sakra
Lúc này Sakra suy nghĩ: Hãy để tôi tán dương và thờ phụng câu nói về pháp mà ngài Subhuti đang diễn giải, lúc này, Sakra hiện và rải hoa lên ngài Subhuti. Ngài Subhuti lại suy nghĩ như trả lời: Những hoa này đang xuất hiện ở giữa những vị trời 33 này tôi chưa từng thấy bao giờ. Những bông hoa mà Sakra rải đều là biến hiện ảo thuật.  Những hoa này không xuất phát từ cây, cỏ hay cây leo. Những bông hoa được hiện ra bây giờ đều là do tâm thức tạo ra. Sakra trả lời: “Những bông hoa này không xuất hiện từ đâu, bởi vì nó không phải từ suy nghĩ, cây, cỏ, cây leo sinh ra”. Bấy giờ Subhuti nói: “Đúng như ngài nói, những bông hoa này không từ đâu mà ra, không từ tâm, từ cây cối nay cây leo, vì những thứ mà không phải từ đâu ra thì không phải là hoa.
5 Rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo
Lúc bấy giờ Sakra nghĩ như vầy: Rất mực khôn khéo, quả như vậy, Subhuti, khi ông giải thích chỉ một sự việc nhỏ như vậy, mặc dù như vậy vẫn không mâu thuẫn với những kiến nhận của sự thật (norm of truth), mặc khác lại chỉ rõ và giải thích chúng một cách đơn giản. Sakra nói với Subhuti: Đúng vậy, Bồ Tát thực hành đúng như những gì mà ông chỉ ra.
Subhuti: Người rất mực tận tụy thì làm như vậy. Người rèn luyện như vậy không vì quả vị Dự Lưu hay các Thánh quả hay cho tới quả vị Phật. Như vậy người nào rèn luyện như vậy ở những cấp độ như vậy, thì rèn luyện, như Phật tánh, để đạt đến sự toàn giác thanh tịnh và không phân biệt; và cũng như vậy rèn luyện trong vô số vô hạn Phật-Pháp. Vì vậy, người tu luyện thì không nhằm tang them ngũ uẩn, hay làm chúng giảm đi, không nắm bắt ngũ uẩn, hay thả chúng đi. Cũng không tu luyện để nắm bắt được tất cả các pháp cho đến sự toàn giác, không sản sinh, cũng không làm nó biến mất. Khi tu luyện như vậy thì Bồ Tát tu luyện ở sự toàn giác, và tận tụy như vậy thì đi đến sự toàn giác.
Sakra: Vậy Bồ Tát có đi đến sự toàn giác hay không, mặc dù người này không rèn luyện để nắm bắt được pháp nào, ngay cả sự toàn giác, không sản sinh, cũng không làm biến mất.
Subhuti: Người như vậy thật đúng là làm như vậy.
Sakra hỏi Sariputra: Bằng cách nào và ở nơi đâu thì Bồ Tát có thể tìm kiếm trí tuệ hoàn hảo?
Sariputra: Ở trong bài thuyết luận của Subhuti
Sakra: Bằng thần lực của ai mà ngài Subhuti giảng dạy được trí tuệ hoàn hảo?  
Sariputra: Bằng thần lực của Phật, và thế vị của Phật.
Subhuti: Đúng là từ thần lực của Phật mà trí tuệ hoàn hảo được giảng dạy. Như ông hỏi: Bằng cách nào và ở nơi đâu thì Bồ Tát có thể tìm kiếm trí tuệ hoàn hảo? Câu trả lời là người này không tìm kiếm điều này qua hình tướng hay 5 uẩn, hay bất cứ điều gì ngoài hình tướng, ngoài 5 uẩn. Bởi vì trí tuệ hoàn hảo thì không phải 1 trong những 5 uẩn, lại cũng không phải ngoài 5 uẩn.
6. Sự vô hạn của trí tuệ hoàn hảo
Sakra: trí tuệ hoàn hảo thật đúng là hoàn hảo, vô biên, vô hạn, không thể tính đếm được.
Subhuti: Đúng như vậy, là vì sao? Trí tuệ hoàn hảo thì vĩ đại, vô hạn, không tính đếm được là vì hình tướng, cảm xúc vv cũng như vậy. Vì vậy, không nên suy nghĩ rằng ‘đây là trí tuệ hoàn hảo’, và ‘hoàn hảo vô tận’, ‘hoàn hảo vô biên’, ‘hoàn hảo không thể tính đếm’. Đây là lý do vì sao trí tuệ hoàn hảo thì rất hoàn hảo, vô biên, vô tận. Trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận là vì vật thể cũng như các cá thể chúng sinh cũng là vô tận. Trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận vì không ai có thể đến được đầu, giữa hay cuối của sự thật bị động (objective fact). Hơn thế nữa, trí tuệ hoàn hảo là hoàn hảo vô tận vì tất cả các sự thật đều vô tận vô biên, phần giữa, đầu và cuối đều không thể nắm bắt được. Vì không ai có thể nắm bắt được phần giữa, đầu và cuối, hay ngay cả ngũ uẩn. Chính vì lý do của sự vô tận của sự thể (objects) mà trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận. Hơn thế nữa, tất cả nọi người thì đều vô tận vì không thể biết được điểm đầu, giữa và cuối. Vì vậy, trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận vì lý do là có vô số chúng sinh
Sakra: Subhuti, vì sao trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận bởi vì có vô số chúng sinh?
Subhuti: Nó không phải là vì số lượng chúng sinh vô vàn như vậy.
Sakra: Vậy, Subhuti, vậy trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận bởi vì có vô số chúng sinh đúng không?
Subhuti: Kausika, từ “chúng sinh” diễn đạt sự thật toàn thể nào? (factual entity)
Sakra: “chúng sinh” là diễn tả sự không pháp hay không phải pháp. Nó là từ ngữ được gắn vào một cái gì đó không có căn cứ (groundless), tự thể không có gì cả (no-thing), không được thiết lập bởi những sự thật nào cả.
Subhuti: Vậy khi nói đến “chúng sinh” thì có chúng sinh nào xuất hiện chăng?
Sakra: không, Subhuti
Subhuti: Vậy nếu không có chúng sinh nào xuất hiện thì làm sao có vô số chúng sinh? Bởi vì, nếu vị Phật nào, với giọng nói phát ra vô số hướng, và với giọng nói như sấm này, phát âm từ “chúng sinh” trong vô số kiếp nhiều như cát song Hằng thì vị Phật này có sản sinh hay chấm dứt cuộc sống của sinh linh nào không, trong quá khứ, hiện tại, vị lai?
Sakra: không, Subhuti! Bởi vì chúng sinh vốn thanh tịnh từ thuở ban đầu, hoàn toàn thanh tịnh.
Subhuti: Cũng như vậy, trí tuệ hoàn hảo là sự hoàn hảo vô tận vì có vô số chúng sinh. Bằng cách này thì nếu có vô số trí tuệ hoàn hảo thì cũng được biết từ vô số chúng sinh.
7 Xác nhận.
Lúc này các chư Thiên xung quanh Indra, Brahma và Prajapati và đoàn người nam và nữ xung quanh Rishis thốt lên 3 lần: “Hoan hô Pháp! Hoan hô Pháp! Hoan hô tính pháp của Pháp! Và họ nói them: Subhuti quả thật diễn tả, chỉ rõ và làm sáng tỏ bằng cách nào mà Phật hiện thế (theo đúng tính chất ấy) (how thusly any Tathagata comes to be manifest). Là Phật tương lai chúng con tín nhận tất cả Bồ Tát sở hữu sự đầy đủ của trí tuệ hoàn hảo và những ai thực hành như vậy
Phật nói: Đúng vậy, các chư Thiên! Cũng như ta, khi gặp được Đức Phật Dipankara, ở thành phố vương quốc Dipavati, sở hữu trí tuệ hoàn hảo, Dipankara đã thọ ký cho ta thành Phật, và nói với ta: “Này Brahmin, ông sau này, trong vô số kiếp về sau, sẽ thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), có đầy đủ trí tuệ và đạo hạnh, Giải Thoát, biết cả thế giới, vô thượng, người giáo hóa, thầy của trời người, Phật Đà!
Các chư Thiên đều nói: Thật là tuyệt vời, thưa Ngài, đây thật là tuyệt vời, thưa Ngài, có bao nhiêu tri thức thì đều được nuôi dưỡng và ủng hộ những Bồ Tát này, với phương tiện là trí tuệ hoàn hảo.

Chương III
Kính trọng đối với đài pháp của sự hoàn hảo, nơi cất chứa vô số giá trị tốt.
1 Giá trị thường trong đời sống của trí tuệ hoàn hảo (worldly advantage) 
Phật thấy những vị chư Thiên tụ họp như vậy, có cả tăng, ni, thiện nam, thiện nữ đều ngồi tụ họp, Ngài liền nói với các chư Thiên: Ma, và quyến thuộc của ma sẽ không thể hãm hại bất cứ ai tu theo trí tuệ hoàn hảo, luôn giữ trong trí, dạy, học, hay lưu truyền trí tuệ hoàn hảo. Người và Ma cũng không thể hãm hại người này. Những người này cũng không chết oan uổng, những thần tiên muốn đạt được Chánh Đắng Giác, nhưng không có trong tay được trí tuệ hoàn hảo thì đến gần những người làm như vậy để lắng nghe, những vị này cũng tu tập, giữ trong trí, dạy, học và lưu truyền trí tuệ hoàn hảo này. Người hết lòng tôn trọng trí tuệ hoàn hảo này thì không sợ, không bao giờ khiếp sợ, mặc dù ở trong rừng, dưới gốc cây, nới vắng, đồng hoang, trên lộ, đường cao tốc, hay trên biển.
Tứ Đại Thiên Vương: Thật tuyệt vời, thưa Ngài, những ai học tập, vv trí tuệ hoàn hảo này, vì những người này huấn dụ mọi người trong 3 thừa, nhưng không nhận thấy có ai cả. Chúng con, thưa Ngài sẽ ủng hj và bảo vệ người đó.
Sakra, Brahma và các thiên chúng hứa sẽ bảo vệ những người đi theo trí tuệ hoàn hảo
Sakra: Thật tuyệt vời, thưa Ngài, bằng cách tu học, vv trí tuệ hoàn hảo này, người này sẽ gặt hái được nhiều điều lợi ngay tại đây. Vậy người như vậy thì có tu học theo cả 6 sự hoàn hảo hay không?
Phật: Có, và hơn nữa, bằng cách tu học, vv trí tuệ hoàn hảo này, người này sẽ gặt hái được nhiều điều lợi ngay tại đây. Hãy lắng nghe kỹ, ta sẽ diễn nói những lợi ích này
Xin Ngài hãy nói, chư Thiên nói
Phật: Những sự bất đồng, cãi vã và bất thuận đối với pháp này sẽ tan biến mất, ý đồ của kẻ thực hiện tan biến mất. Đây là một sự thực, khi mà người nào tu học theo trí tuệ hoàn hảo này thì những sự cãi vã ấy biến mất, không còn tồn tại nữa. Đây là một điều lợi.ngay hiện tại. Ở đây, chúng ta có một loại cây thuốc tên Maghi, là liều thuốc cho mọi loại loại độc dược.Giả sử có rắn lục, đang đói, thấy có một sinh vật, liền theo sinh vật đó, theo mùi của nó, để nhằm ăn thịt nó, nhưng bây giờ, sinh vật này chạy vào một lùm cây Maghi và đứng tại đó, ta biết là mùi hương của cây này làm cho con rắn quay đầu lại. Vì dược tính của cây này mạnh đến mức hơn cả độc dược của rắn, cũng như vậy, những xích mích, cãi vã mà người đi theo trí tuệ hoàn hảo phải đối mặt thì tự nhiên êm dịu lại, không còn biến động nữa, là nhờ dòng lửa xuyên suốt của trí tuệ hoàn hảo, nhờ vào sức mạnh, năng lực, sự chứa đựng năng lực của nó. Tất cả những thứ này tan biến cả, và không còn tồn tại, không phát triển được hơn nữa. Là vì sao? Vì trí tuệ hoàn hảo làm tan biến mọi ác tâm, từ tham lam bình thường cho đến bám lấy Nirvana, không làm nó tang trưởng. Và tất cả chư Thiên, Phật và Bồ Tát, đều bảo hộ cho người tu học theo trí tuệ hoàn hảo. Đây là một điều lợi ở ngay hiện tại. Còn nữa, giọng nói của người đi theo trí tuệ hoàn hảo thì dễ nghe, nhẹ nhàng, vừa phải, điềm tĩnh. Sân hận và kiêu ngạo không còn chế ngự những người này. Khi người này tập trung chăm chỉ để cố gắng diễn tả những sự thực trong cuộc sống (reveal such facts) thì trí tuệ hoàn hảo chuyển hóa và thuần hóa (tame) người này. Sân hận và kiêu ngạo không tang trưởng, Người này không còn tâm lý thù địch hay ác tâm, không còn có cả xu hướng tới những ý nghĩ này. Người này trở nên thân thiện và chú tâm (mindful). Người này suy nghĩ: Khi tôi chấp thuận với những ý xấu thì khả năng tâm thức (faculties) của tôi tan thành từng mảnh, như vậy cho đến tất cả những đặc tính có lợi cho tất cả mọi người bị nuốt mất, và thật là vô lý khi tôi đã quyết tâm đến với Bodhi và quyết tâm tu rèn như vậy mà lại để tự thân bị kiểm soát bởi sân hận. Bằng cách này, người này lấy lại khả năng điềm tĩnh. Đây cũng là một cái lợi ở ngay tại nơi này.
Sakra: Thật là một điều tuyệt vời trí tuệ hoàn hảo này được đặt ra (set up for) để giúp giáo hóa và dạy dỗ Bồ Tát
Phật: Hơn thế nữa, người đi theo trí tuệ hoàn hảo này nếu có ra trận, ngay khi ở tiên phong thì vẫn không thể bị mất mạng. Người này không thể bị giết bởi kẻ khác. Nếu có ai dùng kiếm, gậy, hay đất mà đánh người này thì thân người này cũng không thể bị đánh. Bởi vì trí tuệ hoàn hảo này là một kho tàng rất lớn, vô tận, vô biên, không thể tính đếm, vô thượng, kho tàng ngang bằng với Vô Thượng, chính là trí tuệ hoàn hảo. Khi người này rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo thì người này không đánh động sự bình tâm của mình hay của người (disturb one’s peace). Bồ Tát rèn luyện trong kho tàng này thì vén mở Bodhi, nhận thức được toàn giác. Đây cũng là một điều lợi ở ngay tại đây. Hơn thế nưa, ở đâu mà trí tuệ hoàn hảo này được viết thành sách, trang nghiêm và được tôn thờ, lại được giữ trong trí, tu học thì chúng sinh ở đó không bị hãm hại, ngoại trừ vì nghiệp lực đã tạo. Đây cũng là một điều lợi ở ngay tại đây. Cũng như vậy, Kausika, người và ma đi đến đạo tràng Bodhi, hay đến vùng lân cận, vùng trong, hay cội của cây Bodhi, thì đều không bị hãm hại bởi người hay ma, không bị đả thương, hay bị đoạt sinh khí (taken possession of), ngay cả đối với sự giúp đỡ của thú ác, ngoại trừ là do phải trả quả nghiệp trước. Tại đây, Phật quá khứ vị lai và hiện tại và vị lai đến để vén mở trí Phật, tâm Bodhi (enlightenment) và củng cố, tiết lộ cho chúng sinh sự không sợ, không hiếu chiến (hostility), không hoảng (fright). Cũng như vậy, Kausika, ở nơi có người tu học, nắm trong trí, vv trí tuệ hoàn hảo thì nơi đó chúng sinh không hại chúng sinh, Trí tuệ hoàn hảo làm cho nơi đất có nó trở thành đền tháp chân thật cho chúng sinh- đáng được thờ phụng và yêu mến, là chỗ trú cho chúng sinh, nơi nghỉ ngơi và là chỗ che chở cứu trợ cho chúng sinh. Đây cũng là một điều lợi ở ngay tại đây.
2 Sự thờ phụng trí tuệ hoàn hảo so với sự thờ phụng Phật
Giả sử có 2 một người là thiện nam hay thiện nữ, chép trí tuệ hoàn hảo này, tạo ra một bản sao. Người này đặt lên trên cao, thờ cúng, tôn trọng, ngưỡng mộ với thiên hoa, hương, nhang, lụa, hương bột, tràng phan, cờ, chuông, đèn xung quanh, và nhiều kiểu để thờ phụng. Người thứ 2 đặt vào tháp xá lợi của Phật, người đã nhập Nirvana, người này nắm giữ và bảo quản những vật này, tôn sùng, thờ phụng và trang hoàng với hoa, hương, vv như người trước, vậy người nào nhiều công đức hơn?
Phật: Ta sẽ hỏi ông ở điểm này, ông hãy trả lời theo hết khả năng của mình. Phật, như đã thu nhập và biết được Bodhi toàn giác, vậy Phật làm thế nào để đạt được sự vén mở của tính chất toàn giác, tu luyện theo pháp nào mà được vậy?
Sakra: Chính là nhờ trí tuệ hoàn hảo này mà Phật đạt được Bodhi và trí tuệ hoàn hảo.
Phật: Cũng như vậy, Phật không thiết lập ra cái tên cho sự thể rằng một người đã đạt được tính cách vật lý này (physical personality), nhưng từ sự thể thực tế (from the fact) là người này đạt đến toàn giác. Và chính sự toàn giác này của Phật được bắt nguồn từ sự tu học trí tuệ hoàn hảo này. Tính cách vật lý của Phật có được là nhờ khéo léo trong phương tiện của trí tuệ hoàn hảo này. Và chính sự như nhau này là nền tảng vững chắc để làm cho sự biết của toàn giác này xuất hiện. Được hỗ trợ nhờ nền tảng của sự tiết lộ về trí biết toàn giác này, thì từ đó mới xuất hiện thân Phật, thân Pháp, thân Tăng. Tính chất vật lý có được là nhờ sự biết của toàn giác. Chính là vì nó là nền tảng của của tất cả trí biết, nó đã trở thành một đền tháp chân thật cho mọi người, đáng được tôn trọng và kính nể, thờ phụng. Khi đã vào Nirvana thì xá lợi của ta cũng được thờ phụng. Chính vì lý do này mà người chép (copy) trí tuệ hoàn hảo này có được một công đức khác hẳn. Vì khi làm việc này thì người này thờ phụng sự biết của toàn giác. Thiện nam và thiện nữ, khi chép ra trí tuệ hoàn hảo này và tôn sùng trí tuệ hoàn hảo thì có được công đức khác hẳn. Vì khi tôn thờ trí tuệ hoàn hảo thì chính là tôn sùng sự biết của toàn giác.
Sakra: Làm sao mà như vậy được, người Diêm Phù (Jambudvipa) không copy trí tuệ hoàn hảo này, không học theo, không thờ phụng, không biết rằng Phật đang dạy cách tu học trí tuệ hoàn hảo, một điều vô cùng có lợi, gieo hạt giống tốt! Nhưng những người này không biết được điều này! Không tin tưởng điều này! Không hiểu được điều này!
Phật: Ông nghĩ sao, Kausika, có bao nhiêu người ở Jambudvipa có niềm tin hoàn hảo ở Phật, Pháp, Tăng?
Sakra: Chỉ một số người.
Phật: Đúng vậy, Kausika, chỉ một số người ở Jambudvipa có niềm tin hoàn hảo vào Phật, Pháp, Tăng. Ít hơn những người này là những người đạt quả vị Dự Lưu, sau đó là Nhất Lai, Bất Hoàn, ít hơn nữa là A La Hán, ít hơn nữa là những người đạt được Duyên Giác quả. Ít hơn nữa là những người phát tâm Bodhi (raise any thoughts to full enlightenment). Ít hơn nữa là những người, bằng cách làm sạch những chướng ngại, và từ đây suy nghĩ đến Bodhi, và ngay cả lúc này cũng tiếp tục tăng cường những suy nghĩ trên. Ít hơn nữa là những người nâng những suy nghĩ này lên đến Bodhi, và lại còn tinh tấn dụng sức. Ít hơn nữa là những người thiền về trí tuệ hoàn hảo. Ít hơn nữa là những người áp dụng và bước đi trên trí tuệ hoàn hảo. Ít hơn nữa là những người làm như vậy rồi, bước đến địa vị Bồ Tát bất thoái chuyển. Ít hơn nữa là những người tiếp tục cố gắng đi trên trí tuệ hoàn hảo, đạt được đến Bodhi. Ít hơn nữa là những người biết hoàn toàn về Bodhi. Bây giờ, khi mà những Bồ Tát đứng trên địa vị bất thoái, biết được Bodhi (đắc đạo), lại diễn nói trí tuệ hoàn hảo cho thiện nam và thiện nữ, những ai thực sự chú tâm, rèn luyện chính bản thân mình và cố gắng nơi trí tuệ hoàn hảo. Những người này tuần tự tu học theo trí tuệ hoàn hảo, thờ phụng nó. Ở đây có vô số người nghĩ đến Bodhi, tang cường những suy nghĩ như vậy, lại đi trên con đường như vậy, nhưng chỉ có một hoặc hai người đạt đến địa vị bất thoái chuyển của Bồ tát! Bởi vì Bodhi rất khó diễn tả, và rất khó để đạt đến được nếu không tinh tấn, lười biếng hay có những đặc tính biểu hiện của người hạ cấp, suy nghĩ hạ cấp, ý tưởng và trí tuệ hạ cấp. Vì vậy, nếu muốn chóng đạt được Bodhi thì phải không ngừng nghe và học trí tuệ hoàn hảo này. Cần phải hiểu được điều này, Bồ Tát được Phật huấn dụ trong trí tuệ hoàn hảo; cũng như vậy cần phải rèn luyện như vậy, vì đây chính là Thầy của Phật. Và trong mọi trường hợp, khi Phật nhập Nirvana thì Bồ Tát trở về với chính trí tuệ hoàn hảo này. Bây giờ, Kausika, khi Phật nhập Nirvana, nếu có người xây dựng nhiều bảo tháp làm bằng 7 thứ chất liệu quý, đặt trong đấy xá lợi của Phật, và trong suốt cuộc đời hiến cúng dùng hoa, vv vậy người này, nhờ vào công sức bỏ ra, có được nhiều công đức chăng?
Sakra: Đúng vậy, người này được như vậy.
Phật: Người nào tin nhận trí tuệ hoàn hảo này thì công đức còn khác gắp bội; người tin tưởng tâm sự, chú tâm kiên quyết vào trí tuệ hoàn hảo, thanh thản trong niềm tin, nâng suy nghĩ của mình lên đến Bodhi, chú tâm thật sự…nghe, học, giữ trong trí, tụng và học, lưu truyền, diễn giải, lặp lại, làm sáng tỏ cho người khác, giải thích nghĩa, suy xét với tâm thức, và dùng hết khả năng trí tuệ của mình để xem xét, sao chép, và giữ gìn cất giữ bản sao để pháp này tồn tại lâu dài, để cho người dẫn đường của Phật không bị ẩn mất, để cho pháp không mất đi, để cho Bồ Tát tiếp tục được dẫn dắt vì người dẫn dắt này không biết mệt, và người tôn trọng và thờ phụng trí tuệ hoàn hảo…Kausika, người đi theo trí tuệ hoàn hảo thì công đức khác hẳn so với người xây nhiều tháp làm bằng 7 báu để thờ xá lợi Phật…còn khác hơn nhiều so với công đức người xây toàn tháp trên cả thế giới này, hơn rất nhiều người trong bốn châu xây toàn là tháp Phật. Hay cũng như vậy, tất cả chúng sinh trong tiểu thế giới (chiliocosm), hay trung thế giới, hay đại thiên thế giới cũng đều làm tương tự như vậy. Hay, giả sử tất cả mọi người trong tam thiên đại thiên thế giới xây tháp như vậy, và mỗi người khi xây xong đều tôn thờ tháp này cho đến 1 kiếp, và những gì còn lại trong 1 kiếp, ngay cả như vậy, người đi theo trí tuệ hoàn hảo thì có công đức khác hẳn với công đức của tất cả chúng sinh thờ phụng và xây dựng vô số tháp
Sakra: Đúng vậy, thưa Phật. Vì người nào tôn thờ trí tuệ hoàn hảo thì người này, theo ý nghĩa tuyệt đối, tôn thờ tất cả Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai ở vô số quốc độ, việc mà chỉ có thể hiểu được cùng một lúc bởi trí của 1 Đức Phật. Công đức của người này thì khác với công đức vô số chúng sinh trong Đại thiên thế giới nhiều như cát song Hằng, ngay cả khi mỗi chúng sinh ở đây xây 1 cái tháp, và khi xây xong rồi thì thờ phụng trong 1 kiếp, hay những thứ còn lại trong 1 kiếp.
3 Trí tuệ hoàn hảo, thần chú vĩ đại
Phật: Đúng như vậy, Kausika, công đức của người đi theo trí tuệ hoàn hảo thì hoàn toàn khác, cho đến không thể tính toán, không thể nghĩ bàn, không thể so sánh, không giới hạn. Từ trí tuệ hoàn hảo, tất cả kiến thức của Phật xuất hiện, từ kiến thức này mà xuất hiện sự thờ phụng của Xá Lợi Thế Tôn. Ở đây người đi theo trí tuệ hoàn hảo thì hoàn toàn khác với người xây dựng Tháp (stupas) làm bằng 7 báu, để thờ Xa Lợi Thế Tôn.
Lúc này 40000 thiên chúng nói với Sakra, Đế Thích: Ngài hãy đi theo trí tuệ hoàn hảo! Hãy làm theo trí tuệ hoàn hảo, tụng, học và giải thichscho lợi lạc vô số chúng sinh!
Phật: Kausika, hãy học theo trí tuệ hoàn hảo, tụng, giải nghĩa! Nếu Atula có ý định đánh nhau với thiên chúng trời thứ 33 thì nếu ông, Kausika, đã học, tụng và giải thích nghĩa của trí tuệ hoàn hảo bằng cách đem vào tâm trí thì A tu la sẽ từ bỏ ý định đó.
Sakra: Đây quả thật là kho tàng tuyệt xuất, kho tàng không thể tính đếm, kho tàng không có giới hạn, kho tàng vô thượng, kho tàng tương đương với sự vô thượng.
Phật: Đúng vậy Kausika, bởi chính nhờ kho tàng trí tuệ hoàn hảo này mà Phật ở tất cả thì gian đã đến được và biết được Bodhi. Nhờ vào trí tuệ hoàn hảo, Phật vị lai biết đến được Bodhi, nhờ vào trí tuệ hoàn hảo, Phật hiện tại biết được Bodhi. Chính nhờ vào việc này mà tri thức được hé mở. Nhờ vào kho tàng này mà thập thiện được tiết lộ ở thế giới, tứ thiền cùng với các chi nhánh của Bodhi, 4 vô tận cùng với các chi nhánh của Bodhi, 4 sự chứng của vô sắc (formless attainment) hỗ trợ bởi các chi nhánh của Bodhi, 6 siêu tri thức liên quan tới các chi nhánh của Bodhi (enlightenment-Vô Thượng Bồ Đề), tóm tắt lại là 84000 pháp tạng, trí Phật, trí của sự tự tồn tại, trí không thể nghĩ bàn.
Mặc dù vậy, cũng có lúc tưởng như không có Phật trên thế giới này, chính các Bồ Tát, trang bị bởi khéo léo phương tiện nhờ nghe được trí tuệ hoàn hảo lúc quá khứ (khi có Phật), thương xót chúng sinh, đi đến thế giới này nhờ lòng từ bi, người đã củng cố thập thiện, tứ thiền cùng với các chi nhánh của Bodhi, 6 siêu tri thức liên quan tới các chi nhánh của Bodhi. Cũng như nhờ vành đĩa của mặt trăng mà các cây cỏ, sao và chòm sao đều được chiếu sáng tùy theo năng lực và sức mạnh của chúng, và vì vậy, khi Phật có vẻ như đã đi mất và pháp yếu này có vẻ như bị ẩn mất, trong sự vắng mặt của Phật thì tất cả những việc làm tốt, ngay thẳng, chuẩn mực, kiệt xuất và thiện thì đều được nghĩ đến (conceive) và biểu hiện ở thế giới, tất cả đều xuất phát từ Bồ Tát, được đem đến bởi Bồ tát, được lưu truyền bởi phương tiện khéo léo của Bồ tát. Nhưng sự khéo léo phương tiện của Bồ Tát đều xuất phát từ trí tuệ hoàn hảo, hãy chuẩn bị thấy nhiều sự lợi ích tại đây và bây giờ.
Sakra: Những sự lợi ích này là như thế nào?
Phật: Những người này sẽ không chết oan uổng, vì thuốc độc, kiếm, lửa, nước, gậy, vũ lực. Khi những người này suy nghĩ, nhớ lại và thực hành trí tuệ hoàn hảo này, những tai họa gây hại người này từ vua và hoàng tử, cận sự của vua, quan, đều không thành. Như vua…vv cũng không thể hại người liên tục suy nghĩ, nhớ lại và thực hành trí tuệ hoàn hảo này thì đều không thành công, vì trí tuệ hoàn hảo giữ gìn người này. Mặc dù vua, vv có muốn đến gặp người này để hại họ, nhưng vua lại quyết định chào họ và nói chuyện với họ. Bởi vì chính trí tuệ hoàn hảo này bao gồm thái độ thân thiện và từ bi đối với tất cả chúng sinh. Chính vì vậy, ngay cả khi những người đi theo trí tuệ hoàn hảo phải vào giữa rừng đầy rắn độc, không có người hay ma nào có thể hãm hại được, ngoại trừ do nghiệp quá khứ.
Ngay lúc này có 100 ngoại đạo đi đến Phật với ý nghĩ hãm hại. Sakra, Đế thích, biết được như vậy, liền suy nghi: chắc chắn là họ đến đây với tâm độc ác. Bây giờ ta sẽ suy nghĩ và nhớ lại trí tuệ hoàn hảo như đã được Phật dạy, thực hành và lưu truyền, để những ngoại đạo lang thang này không tiến gần tới được Phật, và sự diễn giảng của trí tuệ hoàn hảo sẽ không bị gián đoạn.
Lúc này, Sakra liền nhớ lại trí tuệ hoàn hảo như đã được Phật dạy, giữ trong trí, lặp lại, vận dụng và lưu truyền. Những kẻ ngoại đạo ngay lập tức lễ phép chào Phật từ xa, và đi mất.
Lúc này, Sariputra suy nghĩ: vì lý do gì mà những ngoại đạo lang thang này lễ phép chào Phật từ xa, và đi mất?
Phật: Vì Sakra, Chúa Tể của các chư Thiên, biết được ý định bất thiện của những ngoại đạo lang thang, ông ta liền nhớ lại trí tuệ hoàn hảo như đã được Phật dạy, giữ trong trí, lặp lại, vận dụng và lưu truyền, với mục tiêu muốn những ngoại đạo lang thang này rời bỏ, những người muốn gây sự, ngăn trở và không cho những kẻ này quấy phá khi trí tuệ hoàn hảo đang được diễn giải. Và ta đã chấp thuận cho Indra (Sakra). Ta không thấy bất kỳ pháp trong sáng nào của những người này. Họ đều muốn đến để quấy phá.
Lúc này Ma, kẻ độc ác, nghĩ: 4 chúng của Phật đều đã tề tựu đông đủ, và ngồi đối mặt với Phật. Đối mặt với Phật là chư thiên cõi dục giới (sense desire) và sắc giới, họ chắc chắn sẽ được Phật thọ ký thành Bồ Tát Bodhi. Giờ ta sẽ tiến đến để làm mờ mắt họ. Lúc này ác Ma triệu tập 4 đội quân tiến đến chỗ Phật.
Lúc này Sakra nghĩ: Thật vậy, ta có thể thấy Ma, kẻ đã triệu tập 4 đại quân tiến đến chỗ của Phật. Nhưng đoàn quân này không phải là đoàn quân của vua Bimbisara, không phải của vua Prasenajit, không phải quân đội dòng họ Thích của Licchavins. Ta cũng đã biết từ lâu ác Ma đi theo Phật, tìm cách đột nhập, tìm cách thâm nhập, nhằm hãm hại chúng sinh. Ta bây giờ sẽ nhớ lại trí tuệ hoàn hảo như đã được Phật dạy, giữ trong trí, lặp lại, vận dụng và lưu truyền. Lúc bấy giờ, Sakra liền nhớ lại trí tuệ hoàn hảo như đã được Phật dạy, giữ trong trí, lặp lại, vận dụng và lưu truyền. Ngay lập tức, ác ma quay đi và lui mất.
Chư Thiên trời thứ 33 biến hiện hoa Mạn đà la (Mandarava) bay trên không trung và rải trên Đức Phật, và họ thốt lên: “Trí tuệ hoàn hảo này sẽ đến với người Jambudvipa lâu dài!” Lại lấy thêm nhiều hoa Mandarava mà tán rải đầy nơi Phật, và nói: Đúng là ác ma và tùy tùng không có cơ hội thâm nhập vào những ai diễn giải và phát triển trí tuệ hoàn hảo này, hoặc đi trên con đường này. Những ai được nghe và học trí tuệ hoàn hảo này không phải chỉ có chút ít căn lành. Những ai tới nghe trí tuệ hoàn hảo này thành thục bổn phận của Jinas ở đời trước. Không phả nói đến những ai học và tụng trí tuệ hoàn hảo đã được tu luyện trên tiến trình đến với tự thực thể chính (thusness) và cố sức trong việc này; những người này đã tôn thờ Phật. Bởi vì qua trí tuệ hoàn hảo này mà người này tìm kiếm sự toàn giác. Cũng như tất cả châu báu đều từ biển mà ra, và được tìm kiếm ở dưới biển, cũng như vậy châu báu của sự toàn giác của Phật thì được tìm trong biển của trí tuệ hoàn hảo.
Phật: Đúng như vậy, Kausika. Đúng là từ trong biển của trí tuệ hoàn hảo thì châu báu kiến thức của Phật có được.
4. Trí tuệ hoàn hảo và những hoàn hảo khác
Anan: Phật không ca ngợi Sự hoàn hảo của bố thí (ba la mật) hay 5 sự hoàn hảo khác; Ngài không tán dương tên gọi của chúng. Chỉ có Trí Tuệ hoàn hảo (Prajnaparamita) là Ngài tán dương, và chỉ có tên gọi này là Phật tán dương.
Phật: Đúng như vậy, A Nan, vì trí tuệ hoàn hảo kiểm soát 5 sự hoàn hảo khác. Ông nghĩ sao, Anan, bố thí, không hồi hướng thì tri thức này có gọi là bố thí hoàn hảo không?
Anan: Không, thưa Ngài.
Phật: Cũng vậy đối với những sự hoàn hảo khác. Ông nghĩ sao, Anan, trí thức có là bất tư nghị không nếu được lật qua (turn over) thành thiện căn bằng cách hồi hướng đến toàn giác?
Anan: Đúng vậy, đúng là bất tư nghị, hoàn toàn như vậy.
Phật: trí tuệ hoàn hảo có được tên này là nhờ có sự xuất sắc vô thượng (paramatvat). Bằng trí tuệ hoàn hảo thì những thiện căn này, hồi hướng đến toàn giác, được gọi là hoàn hảo (ba la mật). Chính nhờ sự hồi hướng thiện căn này tới toàn giác mà trí tuệ hoàn hảo này kiểm soát, dẫn dắt 5 sự hoàn hảo còn lại. Qua cách nhìn này thì 5 sự hoàn hảo nằm trong trí tuệ hoàn hảo, và tên gọi trí tuệ hoàn hảo chỉ là đồng nghĩa cho việc hoàn thiện 6 ba la mật. Vì lí do này, khi trí tuệ hoàn hảo được nhắc đến thì cả 6 sự hoàn hảo (ba la mật). Cũng như ngọc quý, vung vãi khắp thế giới, mọc lên khi điều kiện thành thục, và mặt đất chính là điểm tựa, và những viên ngọc này xuất hiện khi được hỗ trợ bởi mặt đất; ngay cả như vậy, thể hiện dưới trí tuệ hoàn hảo, 5 ba la mật trụ ở toàn giác, những ba la mật này nảy nở nhờ sự hỗ trợ từ trí tuệ hoàn hảo, và vì được nâng đỡ bởi trí tuệ hoàn hảo, chúng được gọi là hoàn hảo. Do vậy, chính nhờ trí tuệ hoàn hảo kiểm soát, dẫn dắt 5 ba la mật này.
5 Những lợi ích khác của trí tuệ hoàn hảo
Sakra:Cho đến bây giờ Phật Ngài vẫn chưa diễn tả hết giá trị của trí tuệ hoàn hảo, những giá trị có được của người học, tụng trí tuệ hoàn hảo. Vì làm sao mà những hiểu biết ít ỏi về trí tuệ hoàn hảo của con từ Phật để lưu truyền được vận dụng để khiến ngoại đạo và Ma quân thoái lui?
Phật: Đúng như vậy, Kausika. Hơn thế nữa, không chỉ có học, tụng trí tuệ hoàn hảo mà 1 người có thể có được những giá trị này, mả cả những người tôn trọng, tập trung vào 1 bản sao của trí tuệ hoàn hảo được diễn giải, thf cũng có được những lợi ích ngay tại đây và bây giờ.
Sakra: Con cũng bảo vệ những người tập trung vào 1 bản sao của trí tuệ hoàn hảo, hơn nữa là người học, và tụng trí tuệ hoàn hảo.
Phật: Đúng lắm, Kausika, hơn thế nữa, những người tụng trí tuệ hoàn hảo này thì có hàng trăm chư Thiên đến gần, hàng ngàn, trăm ngàn chư thiên cùng đến để nghe Pháp. Và khi nghe Pháp thì những chư thiên này đều muốn nói qua người thuyết Pháp.  Mặc dù người này không muốn nói, những chư Thiên này vẫn mong muốn, vì lòng tôn trọng với Pháp, thúc đẩy ý định muốn nói, và người này được thôi thúc để nói Pháp. Đây cũng là một giá trị mà người này có được bằng cách học và tụng trí tuệ hoàn hảo. Hơn nữa, những người nói về trí tuệ hoàn hảo thì tâm không sợ sệt trước 4 chúng. Họ không sợ có người xấu đặt câu hỏi ác. Bởi vì trí tuệ hoàn hảo bảo vệ người này. Chìm trong trí tuệ hoàn hảo, người này không thấy có thái độ thù địch nào, hay có ai có ý tưởng như vậy. Qua cách này, người này được nâng lên bởi trí tuệ hoàn hảo, không bị tác động bởi khiển trách và sợ sệt. Những giá trị này người này có được nhờ học và tụng trí tuệ hoàn hảo ngay trong lúc này. Hơn thế nữa, người này thân thiện yêu thương cha mẹ, bạn bè, quyến thuộc, đồng hữu, Shramana và Brahmana. Người này có khả năng chối bỏ, vẫn tuân theo pháp, những lời nói chống lại (counter argument) và những câu hỏi chống lại. Những khả năng này người này có được nhờ học và tụng trí tuệ hoàn hảo. Hơn thế nữa, Kausika, trong số chư thiên của Tứ Đại Thiên Vương, có vị nào muốn đạt đến Bodhi, quyết định đến nơi mà người này đặt 1 bản sao của trí tuệ hoàn hảo, và cũng tôn trọng và tập trung vào trí tuệ hoàn hảo. Những vị này đến, xem xét bản sao trí tuệ hoàn hảo, chào cung kính, kính lễ, học, tụng. Và những vị này ra đi. Điều này đúng với hết thảy các chư Thiên, ngay cả chư thiên cao nhất cũng vậy. Thiện nam hay thiện nữ cầu nguyện chư Thiên, Rồng, Dược xoa, Càn thát bà, Atula, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hô lạc già, người và ma (phi nhân), ở tận 10 phương vô số thế giới, nhờ sức lực của cuốn sách này mà thấy được trí tuệ hoàn hảo, đều chào kính cẩn, hành lễ, học, và tụng như vậy. Và họ cũng trở về thế giới của họ, và họ cũng hiến tặng những người này món quà pháp. Đừng nên nghĩ Kausika, là chỉ có 4 bộ châu này thôi, mà cả chư thiên cõi dục giới và sắc giới, những ai muốn đến với Bodhi, thì cũng đều đến nơi này. Kausika, cũng không nên nghĩ chỉ có vậy! Tất cả chư thiên trong Tam thiên đại thiên cũng đến nơi này. Họ đến, nhìn vào bản sao trí tuệ hoàn hảo này, chào kính cẩn, làm lễ, học và tụng. Hơn nữa, nhà cửa, phong hay cung điện của những ai đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo thì cũng được canh gác cẩn mật. Không ai dám làm hại những người như vậy, ngoại trừ nghiệp quá khứ. Đây cũng là một giá trị có được tại đây và bây giờ. Vì chư Thiên rất có quyền thế, những nhân vật siêu nhiên cũng đến nơi đây.
Phật: Khi người này nhận thấy ở đâu có ánh sáng hào quang hay hương thơm siêu nhân chưa từng ngửi thấy bao giờ, người này biết có mọt chư thiên hay người siêu nhiên đang hiện hữu. Hơn nữa, những thói quen sạch sẽ và thanh tịnh thu hút những vị chư Thiên, và làm họ thích thú, vui mừng và say mê. Nhưng những chư thiên lực yếu, khi đến nơi này rồi, thì ra đi. Bởi vì họ không chịu được sự sáng chói, uy nghiêm, và cao trọng của những vị chư Thiên rất mạnh, vv. Khi những vị chư Thiên rất mạnh này thường lui đến chỗ người này, những người theo con đường trí tuệ hoàn hảo này càng tin tưởng thanh tịnh hơn. Đây cũng là một lợi ích mà người theo con đường trí tuệ hoàn hảo gặt hái được. Hơn thế nữa, người này không có thói quen bất tịnh xung quanh khu vực nơi trú ẩn của người chỉ dẫn pháp; nếu không thì người này vẫn chưa kính trọng đầy đủ pháp này. Hơn nữa, những người theo con đường trí tuệ hoàn hảo không cảm thấy mệt nhọc thân hay tâm. Khi nằm xuống thì thoải mái, khi đi lại cũng dễ dàng. Khi ngủ thì không nằm mơ thấy điều dữ, mà chỉ thấy Phật, Tháp, hay Bồ Tát, hay đệ tử của Phật. Khi nghe âm thanh gì, người này chỉ nghe thấy âm thanh hoàn hảo và cánh đưa đến Bodhi, người này chỉ thấy cây Bồ đề (Bodhi), và dưới cội cây này là Phật, đã hoàn toàn giác ngộ. Và người này thấy Phật chuyển pháp luân. Và có nhiều Bồ Tát đứng xung quanh chiêm ngưỡng, tụng riêng trí tuệ hoàn hảo này, vui mừng bởi các khúc nhạc, tán dương bằng cách nào mà toàn giác được đạt đến, làm cách nào để thanh tịnh cõi Phật, Người này được chỉ cho thấy phương tiện khéo léo. Người này này nghe âm thanh tuyệt hảo của Phật, của Bodhi: Ở phương này, ở khu vực này, ở thế giới hệ này, dưới tên này thì Phật chỉ giáo pháp, vây quanh bởi chúng đệ tử và vô số ức Bồ tát và Thanh Văn. Khi người này nằm mơ như vậy thì người này ngủ ngon, thức dậy cũng dễ dàng. Ngay cả khi có thức ăn vào thì cơ thể người này vẫn thấy nhẹ nhàng. Người này không nghĩ mênh mang vì ăn uống quá độ. Người này ít thích ăn. Người đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo thì không ham ăn, và chỉ thích một ít. Ngay cả thiền sư học Yoga thì khi xuất thiền thì tâm thức vẫn hướng theo những sở thích khác. Vì người này cống hiến tới trí tuệ hoàn hảo thì nhừng ấy chư thiên sẽ cung cấp cho họ thiên thực. Những giá trị này người này cũng có được những lợi ích này. Nhưng lại nữa, Kausika, nếu có người sao chép trí tuệ hoàn hảo, cung kính và tập trung vào trí tuệ hoàn hảo nhưng không học, tụng hay ứng dụng điều này, và một người khác thật sự tin tưởng vào trí tuệ hoàn hảo, thổ lộ, chăm chú tập trung vào trí tuệ hoàn hảo, thanh tịnh trong niềm tin, thì tâm người này hướng đến Bodhi, chân thực muốn nghe, học, giữ trong trí, tụng và học những gì mà trí tuệ hoàn hảo cung cấp, lưu truyền, giải thích và tụng như vậy, làm sáng tỏ nghĩa cho người khác, khai thác ý nghĩa, truy cứu bằng tất cả tâm trí, và dùng trí thông minh hết mức có thể, chăm chú kiểm tra, sao chép và cất giữ đi bản sao để Pháp tồn tại lâu dài, để người dẫn đường đến Phật đạo không bị ẩn mất, để pháp tốt không bị mất đi, để Bồ Tát, vĩ nhân tiếp tục được giúp đỡ, vì người dẫn đường của họ không mỏi mệt, và cuối cùng là tôn trọng và thờ cúng trí tuệ hoàn hảo này, Kausika, người này có công đức rất khác biệt. Người nào muốn có được những khả năng xuất sắc tại đây và bây giờ thì phải gắng sức bắt chước những người như vầy, và những người này thật sự tin tưởng vào trí tuệ hoàn hảo, vv vì người dẫn đường của họ không mỏi mệt. Người này chia sẻ cho bất cứ ai muốn được như vậy. Vì vậy con mắt của người dẫn đường của Phật không mỏi mệt, và người này cũng vậy, hay những ai khác đang đi trên con đường của đạo hạnh. Hơn nữa trí tuệ hoàn hảo này thì luôn luôn được tôn trọng và suy nghĩ tập trung bằng sự tôn trọng.
   





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét