Chương IV
Nói lên về giá trị
1 Giá trị tương đối giữa Xá Lợi Thế Tôn và trí tuệ hoàn hảo
Phật: Nếu, Kausika, một bên ông được tặng cõi Jambudvipa này đầy
cả xá lợi của Phật, và bên kia thì là một bản sao của trí tuệ hoàn
hảo…và nếu ông phải chọn 1 trong 2 thì ông sẽ chọn cái nào?
Sakra: Chính trí tuệ hoàn hảo này, thưa Phật, vì con thấy,
trong giớ hạn của sự kính tin của người dẫn đường cho Phật, thì theo
suy nghĩ đúng thì đây cũng là thân Phật. Như Ngài nói: “Pháp thân là
Phật, đây là Phật. Nhưng theo việc này, các Tăng Ni, đừng nghĩ rằng
thân cá nhân này là thân của ta. Mà phải nghĩ, các Tăng, là sự hoàn
thiện bởi Pháp thân. Nhưng thân Phật này phải được hiểu là đem lại
từ giới hạn của sự thật (reality limit), nghĩa là từ trí tuệ hoàn
hảo. Thưa Ngài, không phải là con không kính trọng đối với xá lợi
của Thế Tôn, trái lại, con rất kính trọng, bởi vì xuất phát từ trí
tuệ hoàn hảo mà những viên xá lợi này được tôn trọng, và khi có
người tôn trọng trí tuệ hoàn hảo này thì cũng là tôn trọng hoàn
toàn đầy đủ xá lợi Phật, vì xá lợi của Phật đến từ trí tuệ hoàn
hảo. Cũng như con ngồi trên tòa Sudharma, tòa ngồi của chư thiên. Khi
con ngồi trên ấy thì chư thiên đến hầu cận con, Nhưng không phải là
con, những chư thiên, vì kính trọng con, kính trọng cái tòa con ngồi,
đi vòng quanh và ra đi. Vì những người này tưởng nhớ đến Sakra, Đế
Thích, đã thuyết pháp cho những vị trời 33. Cũng giống như vậy, trí
tuệ hoàn hảo là nguyên nhân chính và là điều kiện để vén mở sự
toàn giác và tiếp sức cho Phật. Xá lợi của Phật, mặt khác, là nơi
đặt để của toàn giác, nhưng đây không phải là điều kiện thực sự,
cũng không phải là lý do sản sinh ra những sự biết như vậy. Cũng như
lý do có được sự biết toàn giác và trí tuệ hoàn hảo cũng được
kính trọng qua sự tập trung vào xá lợi Thế Tôn. Vì lý do này mà
giữa 2 khối vừa nêu thì con sẽ chọn trí tuệ hoàn hảo. Nhưng không
phải là vì con không kính trọng xá lợi Thế Tôn, khi chọn như vậy thì
con cũng đã kính trọng xá lợi rồi, bởi vì xá lợi được thấm đậm
bởi trí tuệ hoàn hảo. Và nếu con phải chọn một bản trí tuệ hoàn
hảo một bên, và xá lợi Thế Tôn đầy cả Tam thiên Đại thiên thì con
cũng vẫn chọn trí tuệ hoàn hảo này, cũng vf lý do tương tự. Vì xá
lợi Thế Tôn là nơi cất chứa của sự biết toàn giác, nhưng sự biết
đấy cũng đến từ trí tuệ hoàn hảo. Chính vì vậy mà giữa 2 khối
này thì con chọn trí tuệ hoàn hảo. Nhưng không phải là vì con không
kính trọng xá lợi Thế Tôn. Khi chọn như vậy thì con đã kính trọng
thực sự rồi. Những việc này được thờ phụng vì được đến từ trí
tuệ hoàn hảo, và được phảng phất bởi trí tuệ hoàn hảo.
2 So sánh với hòn ngọc ước
Cũng giống như hòn ngọc vô giá, là thứ ngăn cản người và ma
thâm nhập vào nơi nó được để. Nếu một ai đó bị ma ám, thì chỉ cần
đưa ra viên ngọc này, thì ma lập tức đi mất. Nếu có người bị sinh
khí, đưa hòn ngọc này lại khi người này đang trướng lên thi người này
sẽ nhịn được khí này, và không làm tình trạng tệ hơn, làm dịu lại.
Nó cũng có tác dụng tương tự đối với người bị bênh mật, đàm, hay
đau đớn vì bệnh rối loạn dịch. Viên ngọc này làm sáng cả nơi tối
tăm, nơi nóng nực thì nó làm mát chỗ ở gần nó. Ở nơi lạnh thì nó
làm ấm. Nơi có viên ngọc hiện diện thì nó trừ đuổi hết thảy rắn
độc và côn trùng độc khỏi nơi này. Nếu có người bị rắn cắn, chỉ
cần chỉ cho họ thấy viên ngọc này thì nó sẽ trừ độc, làm tan độc.
Đây chính là công dụng của viên ngọc ấy. Nếu có người có nhọt ở
mắt, hay đục thủy tinh thể, bệnh ở mắt, thì chỉ cần đặt nó lên mắt
thì nó sẽ loại trừ những sự thống khổ và bệnh tật. Đây chính là
công dụng của nó. Đặt trong nước, nó nhuộm nước thành màu của nó,
quấn vào vải trắng, đăt trong nước thì nó làm nước chuyển thành màu
trắng. Cũng vậy, nếu quấn bởi vải xanh đen, vàng, đỏ hay đỏ thẫm,
hay bất kỳ loại màu nào thì nó biến nước thành màu của vải. Nó
cũng làm tan hết những vẩn đục trong nước. Viên ngọc này thì có
những giá trị như vậy.
Anan: Vậy viên ngọc như vậy thì được tìm thấy ở thiên cảnh hay
trên cõi Ta bà này?
Sakra: Nó được tìm thấy ở thiên cung, những viên ngọc tìm thấy
bởi người Jambudvipa thì thô và nhỏ, không có những đặc tính như vậy,
vì vậy nó thua xa những viên ngọc ở thiên cung. Nhưng những viên ngọc
ở thiên cung thì rất hoàn thiện và có đủ công dụng. Nếu được đặt
trong giỏ thì khi lấy viên ngọc đi, cái giỏ vẫn có giá trị. Cái
giỏ, nhờ có giá trị của viên ngọc, trở nên một vật thể được chiêm
ngưỡng và mong cầu. Cũng như vậy, thưa Ngài, giá trị của sự toàn
giác cũng bắt nguồn từ trí tuệ hoàn hảo. Vì lý do này mà xá lợi
Thế Tôn đã nhập Nirvana cũng được chú tâm kính cẩn. Vì đây chính là
kho lẫm của sự biết toàn giác. Và cũng như tất cả sự thể hiện của
các pháp bởi Phật ở mọi thế giới đều được kính trọng bởi vì nó
xuất phát từ trí tuệ hoàn hảo, và cũng như người thuyết Pháp diễn
tả Pháp. Cũng như quốc vương được tôn trọng, và năng lực quyền quý
(royal might) của ông ta đem lại niềm can đảm cho một đại chúng, cũng
như vậy người thuyết Pháp (thuyết Pháp có nghĩa là diễn đọc Kinh)
vì năng lực này của Pháp thân, người này đem lại niềm can đảm cho
một đại chúng. Và Xá Lợi của Thế Tôn được tôn trọng cũng vì lý do
giống như người ta tôn trọng sự diễn tả của pháp, và người thuyết
Pháp.
3 Giá trị vô thượng của trí tuệ hoàn hảo
Nếu, thưa Ngài, một bên con được tặng không chỉ Tam thiên đại
thiên này mà tất cả thế giới nhiều như cát sông Hằng đầy cả xá lợi
của Phật, và bên kia thì là một bản sao của trí tuệ hoàn hảo…và
nếu con phải chọn 1 trong 2 thì con sẽ chọn bản sao trí tuệ hoàn
hảo. Thưa Ngài, không phải là con không tỏ lòng kính trọng đối với
xá lợi của Thế Tôn. Sự kính trọng của con là thật. Nhưng chính nhờ
trí tuệ hoàn hảo đã thấm nhuần sự toàn giác cũng như xá lợi Thế
Tôn được tôn trọng, bởi vì xá lợi được đến từ sự toàn giác. Vì lý
do này mà sự kính trọng hay tập trung đối với trí tuệ hoàn hảo là
thờ phụng Phật quá khứ vị lai và hiện tại. Hơn thế nữa, thưa Ngài,
những ai khát vọng được nhìn thấy Phật, như Pháp, những vị Phật tồn
tại trong vô số thế giới hệ, thì cần phải đi theo con đường của trí
tuệ hoàn hảo, gắng công và phát triển trí tuệ hoàn hảo này đây.
Phật: Đúng như vậy, Kausika. Tất cả các Phật đạt được Chánh
Giác đều là nhờ trí tuệ hoàn hảo này. Vì nó giúp cho các vị Phật
biết đúng và quan sát suy nghĩ hành động của chúng sinh.
Phật: Đúng như vậy, Kausika, chính vì Bồ Tát đi trên trí tuệ
hoàn hảo trong một thời gian dài mà biết được suy nghĩ và hành động
của chúng sinh.
Sakra: Vậy Bồ Tát chỉ đi trên trí tuệ hoàn hảo thôi và không
có sự hoàn hảo nào khác?
Phật: Người như vậy đi trên tất cả 6 sự hoàn hảo. Nhưng chính
trí tuệ hoàn hảo đã kiểm soát Bồ Tát, người bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, hay đạt được cái nhìn thấu triệt
về các Pháp. Không ai có thể phân biệt và tách rời 6 sự hoàn hảo
này, tất cả đều được hỗ trợ bởi sự khéo léo phương tiện và dâng
hiến cho trí tuệ hoàn hảo, cho toàn giác. Cũng như không có sự phân
biệt và khác biệt về bóng tạo bởi các cây khác nhau ở cõi Ta bà,
mặc dù màu sắc, hình dạng, là cây, hoa và trái có khác nhau, chiều
cao, bề ngang cũng khác, nhưng tất cả đều được gọi là bóng. Ngay cả
như vậy thì người này cũng không thể đạt được hay gán cho sự phân biệt
hay khác nhau của 6 sự hoàn hảo này, cũng như vậy không có Bồ Tát
nào có thể được hỗ trợ bởi khéo léo phương tiện, dâng hiến cho trí
tuệ hoàn hảo, cho toàn giác.
Sakra: trí tuệ hoàn hảo được ưu đãi bởi những giá trị đặc
biệt này, vô số vô biên giá trị đặc biệt.
Chương V
Sự luân chuyển (lật qua) (revolution) của công đức
1 Trí tuệ hoàn hảo nơi công đức to lớn, và là một công đức
khác.
Sakra: Bây giờ chúng ta hãy xét 2 người. Một người tin tưởng
vào trí tuệ hoàn hảo, học, sao chép, đặt niềm tin vào trí tuệ hoàn
hảo, tụng, diễn giải như vậy, vì người dẫn đường của họ không biết
mỏi mệt. Và khi người này nghe được những lời giảng như vậy thì
người này quyết định không do dự là sẽ không từ bỏ trí tuệ hoàn
hảo này-quả thật là có rất nhiều phẩm chất tốt và nhiều lợi lạc,
nhiều thành quả đạt được, khi có được những giá trị như vậy- người
này canh gác và gìn giữ trí tuệ hoàn hảo này, vì điều này vô cùng
khó (để phát triển trí tuệ hoàn hảo), và tự mình tôn trọng, kính
nể và yêu thích trí tuệ hoàn hảo. Người này tôn thờ như vậy, rồi
lại tặng một bản sao cho thiện nam hay thiện nữ khác, người này cũng
rất thích thú và tham cầu trí tuệ hoàn hảo. Vậy người nào sẽ có
nhiều công đức hơn, người giữ trí tuệ hoàn hảo bên mình hay người đem
tặng cho người khác?
Phật: Bây giờ ta hỏi ông điều này, ông hãy trả lời tùy theo
sức của mình. Nếu có người tôn thờ xá lợi của Thế Tôn sau khi Ngài
nhập Nirvana, quan sát, gìn giữ xá lợi. Người khác nữa không nhưng tôn
thờ xá lợi, gìn giữ mà còn cho người khác xe, đem tặng, nghĩ rằng
bằng cách này thì sự tôn trọng xá lợi sẽ trở nên rộng rãi và phổ
biến hơn nhờ lòng tư bi và thương xót mọi người, vậy ông hãy trả lời
xem, Kausika, người nào có nhiều công đức hơn: tôn thờ xá lợi, lại cho
người khác xem và hiến cúng, hay người chỉ một mình tôn thờ xá lợi?
Sakra: Chắc chắn thưa Ngài, chính là người chia sẻ cho người
khác
Phật: Đúng như vậy, Kausika. Vậy người nào vén mở trí tuệ
hoàn hảo cho người khác chiêm ngưỡng và tu học, luôn luôn tìm cách
giúp đỡ mọi người, thanh tịnh chú tâm tiết lộ hoàn toàn,…người này
nhờ sức này gặt hái được công đức lớn hơn, và không chỉ là công đức
lớn hơn mà là một dạng công đức hoàn toàn khác nữa. Vì công đức
này không có hạn lượng, và vì vậy thì không thể nói là ít hơn hay
nhiều hơn, và không thể tính đếm được, mà được gọi là công đức. Và
hơn nữa người này đến gặp người thích hợp, có thể tiếp nhận trí
tuệ hoàn hảo này, và giải thích tiết lộ cho họ nghe, thì người này
đạt được công đức hoàn toàn khác. Và cũng như vậy, nếu có người
khuyến khích tất cả mọi người ở Jambudvipa làm thập thiện, lại giúp
họ làm được như vậy thì người này có nhiều công đức chăng?
Sakra: Đúng vậy thưa Ngài, rất nhiều
Phật: Tuy vậy nhưng người sao chép trí tuệ hoàn hảo này thì
có công đức rất khác nữa. Lại tin tưởng, sự tin tưởng thanh tịnh và
chắc chắn, luôn luôn suy nghĩ đến Bodhi, và lại thành tâm đem trí tuệ
hoàn hảo này cho Bồ Tát khác, người luôn luôn suy nghĩ đến Bodhi;
người này hoàn thiện chính mình bằng cách viết chép và tụng không
mệt mỏi, và sau khi nhọc công rồi thì khuyến khích người Bồ Tát
khác, giải thích cho họ trí tuệ hoàn hảo, giúp họ thực hành
(instigate), làm họ hứng thú, làm họ vui thích, và bằng ngôn từ của
mình, dẫn dắt họ đến, giáo dục họ, làm sáng tỏ những lợi ích cho
người này, thanh tịnh suy nghĩ của họ và loại trừ nghi hoặc cho họ,
và nói với họ rằng: Hãy đến đây, thiện nam, nữ, hãy rèn luyện mình
trên con đường Bồ Tát này, vì nếu làm như vậy, cố gắng như vậy thì
ông sẽ mau chóng đạt Bodhi. Sau đó hãy tiếp tục giáo hóa vô số người
thoát khỏi những lậu từ vô thỉ kiếp sinh tử đến nay. Nói tóm lại
là nhận thức được giới hạn thực tế”. Khi người này mong muốn vén
mở hoàn toàn trí tuệ hoàn hảo thì công đức người này là vô tận và
khác với những công đức trần tục. Và điều này cũng đúng khi ta so
sánh với công đức của người giáo hóa cho vô số thế giới với mọi
kích cỡ, không luận là thế giới thực hay không thực, số thế giới
nhiều như cát sông Hằng. Hay được so sánh với người thiết lập mọi
người trong tứ thiền, 4 vô tận, 4 chứng ngộ vô sắc (4 formless
attainment), 5 siêu tri thức, ở vô số thế giới hệ. Và trong trường hợp
này người không chỉ viết ra trí tuệ hoàn hảo và tụng mà còn làm
như vậy vì người khác, thì người này có được công đức rất khác so
với chính công đức. Hơn nữa, Kausika, người này cũng có công đức rất
khác nếu thông hiểu nghĩa lý khi đang đọc tụng trí tuệ hoàn hảo, và
khi đã viết xong cho người khác thì tiếp tục giảng dạy cho họ, khai
sáng và làm thông nghĩa lý và câu từ.
2 Trí tuệ hoàn hảo giả (counterfeit)
Sakra: Vậy có ai có thể giải thích được nghĩa của trí tuệ
hoàn hảo này chăng?
Phật: Đúng vậy, ai có thể thông suốt nghĩa lý thì có thể
giảng cho người chưa hiểu. Bởi vì trong mọi thời gian thì có thể có
trí tuệ hoàn hảo bị làm giả. Khi nghe được trí tuệ hoàn hảo giả
này thì người không am hiểu cần phải cẩn thận khi muốn kính lễ với
nó, bởi vì người này, vì không am hiểu, cũng muốn đạt được Bodhi
toàn hảo.
Sakra: Vậy khi nào thi ta biết được là trí tuệ hoàn hảo giả,
không phải thật>
Phật: Khi có tang hay ni nào thân thể không phát triển, đạo đức,
suy nghĩ và trí tuệ không hoàn thiện, lại ngu, ngờ nghệch như cừu, vô
trí. Khi người này diễn nói trí tuệ hoàn hảo thì chính là người
này giảng điều giả. Người này dạy là ngũ uẩn là vô thường, và
chính vì vậy nên cần được xem như là sự phá hủy của 5 uẩn này (
impermanence of 5 skandals interpreted as destruction of these). Khi cố gắng
suy nghĩ như vậy thì họ nói là đang tiến dần đến trí tuệ hoàn hảo.
Mặc khác, không nên suy nghĩ là vì 5 uẩn là vô thường nên nó sẽ bị
hủy diệt. Vì nghĩ như vậy là đi theo trí tuệ hoàn hảo giả. Vì lý
do này, Kausika, người thông hiểu sẽ giảng nói chính xác và không mệt
mỏi ý nghĩa của sự thật và trí tuệ hoàn hảo. Khi giải nói như vậy
thì người này nhận thức được công đức khác biệt và vô cùng.
3 Trí tuệ hoàn hảo là vô
biên và khác biệt hơn hẳn các món quà tinh thần khác
Và những công đức như vậy cũng sẽ rất khác đối với người suy
nghĩ là mình sẽ chịu trách nhiệm đưa bất cứ ai, ở bất cứ thế giới
hệ nào, đến quả Dự Lưu. Và điều này cũng đúng cho quả Bất Lai,
Nhất Hoàn, hay A La Hán. Bất cứ Bồ Tát nào có ý nghĩ đúng đắn sẽ
chỉ nhận thức những mục tiêu không phải là mục tiêu này, nói ra như
vậy, và đặt trước mình con đường lợi ích cho vô số chúng sinh. Vì
chính là trí tuệ hoàn hảo đã đem lại bất cứ quả vị nào, Bất Lai,
Nhất Hoàn, hay A La Hán. Và tất cả Bồ Tát làm tang trưởng sức chịu
đựng (endurance) bằng cách suy nghĩ như thế này, vì khi tự rèn luyện
trong trí tuệ hoàn hảo thì người này đạt được pháp, pháp này sớm
hay muộn cũng bao hàm 1 Phật, và người này càng đến gần tới sự
tiết lộ Bodhi cho lợi ích của vô số người. Vì người này biết là khi
rèn luyện như vậy, đi trên con đường như vậy, cố gắng như vậy thì
người này đem lại tất cả các Thánh quả, từ Dự Lưu đến Phật vị.
Công đức của người nào chia sẻ trí tuệ hoàn hảo thì cũng rất khác
công đức của người đặt vô số người ở vô số thế giới hệ vào quả
Duyên Giác. Hơn nữa, Kausika, khi người nào đó tiết lộ những gì cần
cho Bodhi cho tất cả mọi người Diêm Phù (jambudvipa); và người khác
nữa không chỉ nói là làm cách nào để đạt được Bodhi, mà lại còn
đem cho một bản sao của trí tuệ hoàn hảo; hay, người như vầy đem cho
một bản sao của trí tuệ hoàn hảo này cho một vị Bồ Tát bất thoái
chuyển, nghĩ rằng vị Bồ Tát này sẽ tự rèn luyện như vậy, tự gắng
công và hoàn thiện chính mình, và nhờ thành quả của sự vun trồng,
tăng trưởng trí tuệ hoàn hảo thì hoàn thành được Phật-Pháp. Bây giờ
nếu so sánh với người trước thì người này đạt được công đức khác
hẳn, vì khi mà người này đạt được Bodhi thì người này không thể
không chỉ ra con đường thoát khổ cho vô số người. Vì vậy công đức
người này là rất khác, mặc dù người kia khuyến khích vô số người ở
vô số thế giới phát tâm Bodhi. Và bây giờ thì chúng ta sẽ so sánh 2
người: Người thứ nhất đem cho bản trí tuệ hoàn hảo này cho vô số
chúng sinh, những người không còn thoái chuyển vô thượng Bodhi, và
những người này quyết tâm để đạt được Bodhi; người thứ 2 thì còn
giải thích nghĩa theo câu từ. Vậy người này có công đức nhiều chăng?
Sakra: Người này công đức quả thật rất lớn. Không thể dễ dàng
mà tính đếm khối công đức này, hay so sánh được cái gì tương đương
để có thể so sánh.
Phật: Hơn thế nữa, công đức của người hướng dẫn và giáo hóa
về trí tuệ hoàn hảo cho những vị Bồ Tát bất thoái để họ mau chóng
đạt Bodhi. Và hơn nữa, một Bồ Tát nữa lại hiện lên, nói rằng 1
người có thể chứng Bodhi nhanh hơn họ. Khi có người giáo hóa và huấn
dụ về trí tuệ hoàn hảo cho vị Bồ Tát thông minh này, thì người này
cũng đạt được công đức rất khác và lớn.
Sakra: Mức độ mà một vị Bồ Tát tiến gần tới Bodhi cũng là
mức độ mà người này được giáo hóa trong trí tuệ hoàn hảo, vì trí
tuệ hoàn hảo đưa nhũng người này đến gần sự thể như thật (Suchness).
Khi đã đến gần sự thể như thật thì người này đem lại hạnh phúc cho
người đã giúp họ đạt được như vậy., ví dụ như người cho áo mặc, bố
thí, vật dụng trong nhà và dược thảo để uống. Công đức người này
còn lớn hơn, bởi vì họ đến gần trí tuệ hoàn hảo.
Subhuti: Nói đúng lắm, Kausika, ông củng cố cho những vị thuộc
Bồ Tát thừa, giúp đỡ và ủng hộ họ. Ông đã hành động như vậy.
Những đệ tử cao cả nào muốn giúp đỡ mọi người thì củng cố ý định
đạt được Bodhi của họ, giúp đỡ họ, đứng bên họ.Cũng như vậy người
này tinh tấn. Vì có được trí tuệ hoàn hảo là Bodhi của vị Bồ Tát.
Cũng như vậy nếu Bồ tát không nghĩ tới Bodhi, không rèn luyện
trong Bodhi, hay 6 ba la mật thì kết quả là không đạt được Bodhi. Nhưng
khi Bồ Tát rèn luyện trong Bồ Tát giới, 6 Ba la mật thì người này
hướng tâm đến Bodhi, và người này sẽ đạt được vô thượng Bodhi.
Chương VI
Hồi hướng và tùy hỷ
Công đức vô cùng của sự hồi hướng và tùy hỷ
Di lặc (Maitreya): Ở 2 bên ta có Bồ Tát, công đức có được là do
sự tùy hỷ công đức của người khác, và hồi hướng công đức đến cho
tất cả chúng sinh nhận thức được Bodhi. Còn bên kia thì vì chúng sinh
hành bố thí, đạo hạnh, thiền định. Giữa 2 người này thì Bồ Tát
tùy hỷ và hồi hướng thì lớn hơn rất nhiều, tuyệt hảo, vô thượng,
xuất sắc, bằng với sự vô thượng
Khoảng cách (range) của sự tùy hỷ
Subhuti: Vị Bồ Tát, vĩ nhân, xem xét thế giới ở 10 hướng,ở
mỗi hướng kéo dài đến mọi nơi. Người như vậy xem thế giới hệ quả
là vô biên, không thể tư nghì, không thể tính đoán, không thể nghĩ
bàn, vô tận vô biên.
Người này nhìn nhận trong 3 thời, ở mỗi hướng, mỗi thế giới
hệ một vị Phật,vô biên, không thể tư nghì, không thể tính đoán, không
thể nghĩ bàn, vô tận vô biên, đạt được Bodhi vô thượng ở Nirvana và
không để lại gì. Đường đi đã tận, lối đi cũng vậy, chướng ngại đã
loại trừ và tan biến, người dẫn đường của thế giới, nước mắt đã
cạn, mọi trở ngại được đập nát, gánh nặng bỏ xuống, hạnh phúc đã
đạt đến, những gông cùm của sự trở thành đã diệt (fetters of
becoming), ý nghĩ đã được giải thoát nhờ suy nghĩ đúng đắn, người
đã đạt được và giữ vững sự thanh bình và bình đẳng trong tâm, hoàn
toàn được kiểm soát
Người này suy tưởng và xem xét như vậy, bắt đầu từ sự hiện
diện của suy nghĩ Bodhi, tiến đến xuyên suốt và hoàn toàn (proceeding
throughout and beyond) và vượt trên thời gian và những nhận thức về
Bodhi. Đạt được bằng cách tiến đến và nhận thức Nirvana, cũng giống
như sự thể như vậy (suchness) và sự tổng hợp của Nirvana vốn không để
lại bất cứ gì, và sự tan biến của mọi khoảng thời gian trên cả mọi
suy nghĩ liên quan đến (in consideration of) sự biến mất của Pháp, như
là được diễn giải bởi những vị Phật này.
Người này suy tư về khối lượng của đạo hạnh, khối lượng của
sự tập trung, của trí tuệ, của sự giải thoát, của tầm nhìn và sự
biết về giải thoát của các vị Phật.
Hơn nữa, người này suy tư về khối công đức có được từ hành 6
Ba la mật, với sự đạt được những giá trị của Phật và của tự nhiên,
và với sự hoàn thiện của sự tự tin và năng lực; và cũng như vậy
đối với những ai liên hệ với sự hoàn hảo của siêu tri thức, của sự
thông hiểu, của những lời nguyện thề, tất cả công đức có được từ
sự hoàn thành của sự biết về toàn giác, thỉnh cầu của chúng sinh,
sự thân thiện hay lòng từ bi lớn, và vô số vô biên giá trị của Phật.
Và cũng như vậy người này suy tư về Bodhi và những hạnh phúc
có được nhờ sự an lạc của hành động đúng đắn, và suy nghĩ đúng,
sự hoàn hảo của toàn vẹn độc lập (sovereignty) của tất cả pháp, và
những thành quả của vô số và vô thượng năng lực phép màu
(wonderworking), những năng lực này thuần phục tất cả, và năng lực
trí biết của Phật về sự thể nào là thực sự chân thật, không có
một chút vấy bẩn bao quanh, không gắn kết, phụ thuộc (attachment) hay
bị ngăn trở, vô thượng, ngang bằng với vô thượng, không thể so sánh, đo
lường, và những năng lực của Phật tính và trí biết, vốn là quan
trọng hơn hết thảy những khả năng này. Sự đạt được những khả năng
điềm tĩnh một cách siêu việt (supreme ease), có được nhờ 4 địa của
sự tự tin, và đạt được Pháp nhờ nhận thức được sự thật tột cùng
của tất cả các pháp (ultimate reality)
Người này cũng suy tư về sự chuyển Pháp luân, mang theo đuốc
sáng Pháp, đánh trống Pháp, đổ đầy bình nước Pháp, cầm gươm Pháp,
mưa nước Pháp, và sự sảng khoái (refreshment) của tất cả chúng sinh nhờ
món quà Pháp, qua sự diễn đạt của Pháp. Người này cũng nghĩ về
công đức của người được Pháp giáo hóa, bất luận là pháp của Phật,
Duyên Giác hay Thanh Văn- những người chuyên tâm và tin tưởng, những
người quyết định sẽ đạt đến Bodhi.
Người này cũng nghĩ về công đức lien quan đến 6 ba la mật,
những vị Bồ Tát được thọ ký vô thượng Bodhi. Bồ Tát này suy nghĩ
về công đức của người thuộc về Duyên Giác thừa, những người được
thọ ký chứng Bodhi của Duyên Giác. Người này nghĩ về công đức của sự
bố thí, đạo hạnh và thiền định của bốn bộ chúng của Phật. Người
này nghĩ về công đức của thiện căn trồng bởi chư Thiên, Rồng, Dược
xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hô lạc già, nhân
và phi nhân, cũng của cả thú vật, những thời gian mà Phật thuyết
Pháp, và khi những người này nhập Nirvana, nhờ vào Phật, Pháp, Tăng,
và những người suy nghĩ đúng. Trong lúc thiền định thì vị Bồ Tát
này chồng chất những thiện căn này, tất cả không thiếu sót, gom lại
thành đống, cân lên và tùy hỷ vui mừng bằng sự vui tuyệt hảo và
xuất sắc, với sự tùy hỷ cao nhất và nhiều nhất, không gì hơn và vô
thượng, ngang bằng với vô thượng. Khi tùy hỷ như vậy xong thì người
này thốt lên: “Tôi chuyển công đức sự tùy hỷ này thành Bodhi (Chánh
Đẳng Chánh Giác). Hy vọng là điều này sẽ giúp tôi và tất cả chúng
sinh đạt được Bodhi.
Vấn đề về suy nghĩ (metaphysical)
Bây giờ, khi nghĩ về nền tảng mà những người thuộc Bồ Tát
thừa dùng để tùy hỷ, lien quan đến những điểm tựa và quan điểm, sự
nhìn nhận này (objective supports)…Vậy ta có thể xem những điểm tựa
và cách nhìn nhận này như là dấu hiệu không?
Maitreya: Không, không thể
Subhuti: Vậy ta có xem nền tảng (vốn không tồn tại) này, những
điểm tựa vốn thực sự không tồn tại, là những điểm tựa hay là dấu
hiệu chăng? Người này vào lúc này có những tư tưởng và sự nhìn
nhận sai lệch chăng? Bởi vì như người tham lam thì nhìn nhận những sự
thể không tồn tại (như là nền tảng) và suy nghĩ như vậy- cho cái vô
thường là trường còn, cái thống khổ là niềm vui, cái tôi khi thực
sự không có ai cả, cho cái xấu xí và ghê tởm là đẹp đẽ- lúc bấy
giờ thì người này có tư tưởng sai lệch. Và cũng như những nền tảng,
điểm tựa hay cách nhìn nhận đều là không tồn tại, thì Bodhi cũng
vậy, tương tự với những suy nghĩ về Bodhi, pháp hay cách nhìn
nhận…vậy suy nghĩ nào được người này chuyển thành Bodhi, hay công đức
tùy hỷ nào được người này chuyển thành Bodhi?
Maitreya: Đây không phải là điều được nói hay dạy cho Bồ tát
mới phát tâm. Vì người này sẽ mất đi lòng tin vốn đã ít ỏi, lòng
yêu thích, sự thanh tịnh và tôn trọng mà người này đã gom góp được. Chỉ
trước Bồ Tát bất thoái chuyển thì điều này mới nên nói, được hiểu
và được giảng dạy. Tương tự, một Bồ tát được ủng hộ bởi thiện tri
thức thi không hoảng sợ, hay cứng trơ không phản ứng (stolid), không
thất vọng, buồn bực, hay thoái chuyển Bodhi, không run sợ, hoảng hốt.
Chính bằng cách này mà Bồ Tát chuyển công đức tùy hỷ này thành sự
toàn giác
Subhuti: Chính vì vậy những suy nghĩ có được về sự tùy hỷ và
chuyển giao (turn over), hay hồi hướng tất cả căn lành lien quan đến sự
tùy hỷ- những suy nghĩ về sự tùy hỷ như vậy thì lúc chuyển giao như
vậy trở thành ngưng trệ và biến mất, thoái lui. Vậy bây giờ, bằng
mọi thời gian và phương cách, đâu là suy nghĩ qua đó người này có
thể chuyển giao thành Bodhi? Và suy nghĩ rằng ta có thể chuyển công
đức tùy hỷ này sang Bodhi là gì? Hoặc là, bởi vì không có 2 suy
nghĩ nào có thể gặp nhau, làm sao có ai có thể chuyển hóa một suy
nghĩ, hay hồi hướng, suy nghĩ thứ 2? Chuyển giao hay lật lại (overturn)
đều không thể được, hay chuyển đổi bất cứ suy nghĩ nào liên quan đến
cá thể này (as far as its own being is concerned)
Sakra: Bồ Tát mới phát tâm trên thừa (phương tiện) cần phải
thận trọng không nên hoảng sợ khi nghe những lời nói này. Làm sao mà
Bồ tát có thể chuyển giao công đức tùy hỷ thành Bodhi? Và làm sao
mà người nắm giữ suy nghĩ về công đức của sự tùy hỷ có thể thành
công trong việc nghĩ về sự tùy hỷ, và làm sao để thành công chuyển
suy nghĩ liên quan đến sự tùy hỷ này?
Lúc này Ngài Subhuti chuyển tâm thức đến Ngài Bồ Tát Di Lặc,
tập trung vào ông ta, và nói như vầy: Lúc này Bồ Tát sẽ xem xét
(consider) công đức có được từ vô số Phật từ vô thỉ đến nay theo cách
mà chúng ta đã diễn tả như trước. Người này chồng chất lên tất cả
căn lành này, tất cả số lượng của thiện căn, không bỏ sót, lăn thành
một khối, cân nhắc và tùy hỷ. Người này sau đó nghĩ là sẽ chuyển
khối công đức nhờ tùy hỷ này thành Bodhi. Làm cách nào để Bồ tát
khi chuyển giao như vầy không bị ảnh hưởng của những suy nghĩ không
đúng (perverted view)
Làm cách nào để loại trừ những suy nghĩ xấu
Maitreya: Bồ Tát không thể vì lý do muốn suy nghĩ về sự chuyển
giao mà trở thành một người nhận thức bất cứ suy nghĩ gì (one
perceiving any thought). Chính công đức từ sự tùy hỷ được chuyển
thành, hay có lẽ là trở thành Bodhi (revealed as enlightenment)
Subhuti: Vì người này không nghĩ tới suy nghĩ của mình rằng
“đây là suy nghĩ ấy”, Bồ Tát không có suy nghĩ, cái nhìn sai lệch.
Nhưng nếu ngưới này nghĩ rằng suy nghĩ này là để chuyển giao, nhận
thức rằng “đây là suy nghĩ này”, khi ấy người này trở thành người
thấy và biết suy nghĩ mình. Kết quả là người này có suy nghĩ, cái
nhìn sai lệch.
Nhưng Bồ Tát nào chuyển giao đúng, không sai, như người này nhận
thức và nhớ được rằng suy nghĩ để dùng chuyển giao này là kết
thúc, kết thúc như là ngừng lại, thoái lui, đi mất; và khi người này
nghĩ như vậy, bởi vì những gì đã qua đi thì không thể chuyển giao
(turn over), và chính sự qua đi này được xem là ngưng trệ, thoái lui
chính là pháp tánh của tất cả suy nghĩ dùng để chuyển giao, cũng
như là pháp để mà chuyển đến (dharma to which one turns over). Như vậy
thì Bồ Tát đã chuyển giao.
Cần phải suy nghĩ về Phật tương lai, hiện tại hay quá khứ theo
nghĩa này giống như khi nghĩ về Phật quá khứ.
Vậy trong trường hợp nào thì người này không có cái nhìn hay
suy nghĩ sai lệch? Nếu, khi người này chuyển giao, họ cũng nhớ rằng
tất cả các pháp là kết thúc (extinct), ngừng lại, thoái lui, và tất
cả các pháp được chuyển đến thì đều bất diệt. Căn lành này trở
thành một cái gì đó được chuyển thành Bodhi. Vì ngươì này không trụ
lại ở những quá trình hồi hướng nào.
Hơn nữa nếu người này suy nghĩ rằng không có pháp nào được
chuyển thành pháp nào, đây trở thành cái gì đó có thể chuyển thành
Bodhi. Chính nhờ cách này mà Bồ tát khi chuyển giao thì không có suy
nghĩ hay cái nhìn lệch lạc, bởi vì người này không trụ lại ở quá
trình hồi hướng nào. Hơn nữa, người này nhận thức rằng không có suy
nghĩ nào làm phát sinh suy nghĩ nào, ngay cả chính nó hay một suy
nghĩ khác, cũng như vậy không có pháp nào phát sinh, (cognize) làm
nền tảng cho sự xuất hiện của một pháp khác. Việc này cũng được chuyển
giao thành Bodhi. Đây chính là sự trưởng thành hoàn hảo của bất cứ
Bồ Tát nào.
Nhưng nếu Bồ Tát nhận thấy có sự kết tụ (accumulation) của
công đức thì người này không thể chuyển thành Bodhi vì đã trụ lại
(settle down) tại quá trình hồi hướng (dedication)
Hơn nữa, nếu người này nghĩ rằng số công đức này là tách
biệt và vắng lặng, và tương tự công đức tùy hỷ cũng tách biệt và
vắng lặng thì người này chuyển thành Bodhi.
Nhưng hơn nữa người này không thấy có một sự việc có điều
kiện nào vắng lặng và tách biệt, đây chính là trí tuệ hoàn hảo
của Bồ tát. Nhưng người này không chuyển thành Bodhi nếu người này
còn thấy rằng đây là thiện căn của Phật đã nhập vào Nirvana. Hoặc
là thiện căn này đang được chuyển giao thì cũng là huyễn hóa và
cùng một loại, có cùng một đặc điểm (mark), thuộc về cùng một
loại, có 1 cá thể riêng (own-being) giống như vậy. Bởi vì Phật không
chấp nhận sự hồi hướng diễn ra qua một hình thức hay dấu hiệu nào
đó.
Người này không nên nhớ đến hay chuyển thiện căn thành Bodhi nếu
người này đem lại một dấu hiệu bằng cách nghĩ rằng những gì ở quá
khứ đã qua đi, những gì ở tương lai thì chưa đến, những gì ở hiện
tại thì không vững vàng và chắc chắn, và rằng cái không thể đến
thì không có dấu hiệu hay tầm xa gần (this which is not got at has no
sign or range).
Mặt khác người này cũng không thể chuyển giao thành Bodhi nếu
người này không đem lại một dấu hiệu hay tự nhắc nhở mình bằng bất
cứ thứ gì (vì lý do là không tập trung), hay nếu người này không tập
trung bởi vì thiếu sự nhận thức (mindfulness) hay thiếu sự thấu hiểu.
Nhưng những thiện căn trở thành một cái gì đó và được chuyển thành
Bodhi với điều kiện là người này gợi nhớ đến những dấu hiệu như
vậy, nhưng không xem những thứ ấy là dấu hiệu. Chính vì lý do này
mà Bồ Tát tự rèn luyện mình. Đây được gọi là phương tiện thiện
xảo. Qua phương tiện thiện xảo mà người này chuyển giao (lật) bất cứ
căn lành nào, người này tiến gần đến toàn giác. Bồ tát muốn rèn
luyện chính mình ở sự thiện xảo này thì luôn luôn lắng nghe trí tuệ
hoàn hảo này, học và đặt câu hỏi về nó. Vì nếu không có sự giúp
đỡ của trí tuệ hoàn hảo thì người không được rèn luyện sẽ không
thể tiến vào công việc hồi hướng lấy trí tuệ hoàn hảo làm phương
tiện. Nhưng người này không nói là nhờ trí tuệ hoàn hảo mà người
này có thể chuyển hóa công đức thành Bodhi. Bởi vì những cuộc sống
cá nhân ấy đã dừng lại, sự tạo nghiệp cũng đã dừng lại, hoàn toàn
vắng lặng, tách biệt và không có cơ sở.
Hơn nữa, khi người này nhắc tới một dấu hiệu, và tạo ra một
cơ sở phân biệt thì người này nhận thức được sự thật đúng và chính
xác ở những gì không thực sự có thực bởi vì nó
là thực sự có thật, và người này có thể chuyển hóa những gì có
cơ sở thành những gì không có cơ sở (basis). Phật không chấp nhận căn
lành của một người trở thành một cái gì đó có thể, bằng cách
này, chuyển hóa thành Bodhi, vì những thứ này sẽ trở thành một cơ
sở rất lớn cho người đi theo xu hướng này (inclined). Ngay cả Nirvana
của Phật thì người có xu hướng (thiên về) này cũng cho là một dấu
hiệu và là một sự phân biệt, vì vậy người này nghĩ là đã có thể
nhận thấy Nirvana từ một điểm quan sát (get at Nirvana from a viewpoint),
và đây không phải là sự hồi hướng của người có thể nhận thức một
cơ sở mà Thế Tôn gọi là một kho hữu ích (dedication carried out by one
who perceives a basis). Bởi vì quá trình hồi hướng này không phải là
không có độc dược, không có sự cố gắng (torn)
Cũng giống như thức ăn trông như rất tuyệt sắc, nhưng thực sự
thì rất độc. Sắc, hương, vị và xúc trông rất dễ chịu, nhưng vì nó
độc nên những người có tầm nhìn rộng thì không ăn nó. Mặc dù người
vô trí nghĩ rằng thức ăn thì tốt nhất là dùng để ăn. Sắc, hương, vị
và xúc của thức ăn hứa hẹn niềm vui, nhưng nó sẽ biến hóa, làm cho
người ăn chịu đau đớn. Kết quả là người này chết, chết đau đớn.
Cũng như vậy người nhận thức thấy có một cơ sở thì nắm chặt
lấy nghĩa lý vừa được dạy, phân tích sai lệch, học sai lệch, hiểu
không thấu, không hiểu nghĩa thật của nó. Những người này chỉ dạy
người khác hãy xem xét công đức của Phật quá khứ, vị lai và hiện
tại, như đã nói trước, sau đó tùy hỷ và chuyển giao thành Bodhi từ
công đức tùy hỷ. Chính vị sự chuyển giao này được diễn ra từ một
dấu hiệu, nó trở thành độc hại. Nó cũng giống như thức ăn có độc
như trước đã nói. Sẽ không có sự chuyển giao nào cho người vẫn còn
nhận thấy một cơ sở. Vì cơ sở là một thứ độc và có tầm xa gần.
Người theo Bồ tát thừa không rèn luyện như vậy. Vậy họ rèn luyện
thế nào? Làm cách nào để nắm lấy thiện căn của Phật quá khứ, vị
lai và hiện tại? Và làm sao để những thứ được nắm bắt sẽ trở
thành được nắm bắt được? Làm cách nào để chuyển giao? Và làm sao
để nó trở thành một cái gì đó được chuyển giao thành Bodhi Vô
thượng.
Lúc bấy giờ thiện nam hay thiện nữ thuộc Bồ Tát thừa, lại
không muốn hạ thấp Thế Tôn (calumniate), nên vui mừng tùy hỷ đối với
tất cả thiện căn, và chuyển giao như thế này: Tôi tùy hỷ đối với
tất cả thiện căn, những thiện căn mà được nhìn nhận và biết là như
vậy bởi trí Phật, mắt Phật của Phật- tính chất của nó như vậy,
chủng loại của nó như vậy, giá trị của nó như vậy, cá nhân của nó
như vậy, đặc tính của nó như vậy, cách hiện hữu như vậy. Và chính
như vậy tôi chuyển những thứ này qua theo đúng như là Phật chấp nhận
những căn lành này thành Chánh Giác
Khi người này tùy hỷ, chuyển giao như vậy thì Bồ Tát không bị
vướng mắc bởi tội lỗi (free from guilt). Chính sự ngay thẳng của Phật
được tùy hỷ. Chính những thiện căn này trở thành những thứ được
chuyển thành Bodhi. Và người này không hạ thấp vị Phật nào. Bằng
cách này sự chuyển giao không trở nên độc hại, là sự chuyển giao vĩ
đại, chuyển thành yếu tố của pháp, trở nên hoàn hảo, khá hoàn hảo,
đều là nhờ ý muốn chân thành và quyết tâm của người này muốn chuyển
giao. Hơn thế nữa, người thuộc Bồ Tát thừa thì chuyển giao với tất
cả sự hiểu biết của đạo đức, sự tập trung, trí tuệ, sự giải
thoát, tầm nhìn và trí biết của sự giải thoát, không bao hàm thế
giới dục, sắc, hay vô sắc, và vì vậy đây không phải là quá khứ,
hiện tại hay vị lai.
Bởi vì tất cả mọi thứ ở trong 3 thời gian hay 3 thế giới thì
không bao hàm sự thật tối cùng (ultimate reality). Vì lý do này mà sự
chuyển giao cũng không bao hàm (unincluded), và tương tự như vậy là
những pháp (như Phật vị) mà quá trình này được chuyển giao (thành
pháp)- chỉ cần người này luôn tin tưởng chắc chắn điều này. Khi Bồ
Tát chuyển giao như thế này thì những người này không còn mất khả
năng chuyển giao, và nó trở thành không bao hàm (it becomes unincluded),
không độc hại, là một sự chuyển giao vĩ đại, là sự chuyển giao của
yếu tố của pháp, hoàn hảo, khá hoàn hảo. Nhưng nếu người này trụ
vào cái mà người này chuyển giao, xem nó như là một dấu hiệu, thì
người này chuyển giao không đúng. Một Bồ Tát thì chuyển giao với ý
nghĩ như đúng với sự thật của nó (such as it is), là qua sự chuyển
này để nó trở thành yếu tố của pháp (dharma element), như Phật biết
và chấp nhận, thì thiện căn này trở thành cái gì đó có thể chuyển
giao thành Bodhi, được chuyển giao thành công. Đây là phương pháp đúng
để chuyển giao. Và bằng cách này mà nó trở thành cái gì đó có thể
chuyển giao thành Bodhi, được chuyển giao thành công.
Phật: Nói đúng lắm, Subhuti, đúng lắm. Ông thực hiện chức năng
của một vị Thầy khi ông diễn thuyết Pháp cho Bồ Tát. Bởi chính nhờ
sự chuyển giao này, chính là sự chuyển giao của yếu tố của pháp,
cũng là sự chuyển giao của một vị Bồ Tát. Ông nghĩ: “Như Phật biết
và thấy thiện căn này trong thể trạng của pháp (dharmahood)- tính
chất như vậy, chủng loại như vậy, giá trị như vậy, tính cá thể như
vậy, đặc điểm như vậy, cơ sở tồn tại như vậy- thế nên tôi tùy hỷ,
và vì được chấp thuận nên tôi chuyển giao.”
Suy xét về Công Đức
Khối công đức này của Bồ Tát, sinh ra từ sự chuyển giao của
bất kỳ yếu tố của pháp nào, được đánh giá là cao siêu hơn sự thu
góp công đức của người khuyến khích và giúp chúng sinh trong tam thiên
đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng trụ trong thập thiện. Nó
còn lớn hơn khi ngay cả những chúng sinh này cũng đạt được 4 thiền, 4
vô tận, 4 chứng đạt vô sắc, hay 5 siêu kiến thức, hay tương đương như
vậy nếu những người này thành quả Dự Lưu cho đến Duyên Giác. Và đây
chưa phải hết. Nếu tất cả chúng sinh trên tất cả thế giới hệ đều
hướng tới Bodhi, quyết tâm đạt được, và nếu, Subhuti, mỗi một Bồ tát
cung cấp trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng cho chúng sinh trong
Tam thiên Đại thiên thế giới này tất cả những thứ họ cần dùng. Nhưng
khi bố thí thì nghĩ đến một cơ sở, và bây giờ, nếu tiếp tục, ta
tưởng tượng tất cả chúng sinh này đều là một, và nếu mỗi một vị
Bồ Tát trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng cung cấp cho những vị
Bồ Tát này tất cả những gì mà họ cần dùng, và tôn trọng họ; nếu
mỗi một vị Bồ tát như vậy đều bố thí như vậy, thế thì nhờ công
sức này mà những vị Bồ tát sẽ có nhiều công đức chăng?
Subhuti: Rất nhiều, thưa Ngài, khối công đức này vượt trên sự
tính toán. Nếu nó là một vật thể thì cả Tam thiên Đại thiên nhiều
như cát sông Hằng cũng không có chỗ chứa
Phật: Đúng như vậy, Subhuti, hơn nữa, khối công đức có được từ
sự bố thí của Bồ tát khi người này nhận thức một nền tảng cơ sở
thì vô cùng nhỏ, thậm chí khác, khi so sánh công đức như vậy với bất
kỳ thứ gì được tạo ra hay không tạo ra bởi người theo Bồ Tát thừa,
và là người đi theo trí tuệ hoàn hảo và thiện xảo phương tiện,
người này tác động tới việc này hay bất cứ thiện căn nào để chỉ
rõ là sự chuyển giao thành Bodhi có được là nhờ phương tiện chuyển
giao yếu tố của pháp. Vì mặc dù Bồ Tát dựa vào cơ sở để bố thí
thì người này vẫn còn quan niệm những vật bố thí này là nhiều, hay
tốt.
Lúc bấy giờ thì có 20000 chư thiên của Tứ Đại Thiên Vương, chắp
tay kính lễ Đức Phật, và nói: Sự chuyển giao của thiện căn này
thành trí tuệ toàn giác của người nào đi trên con đường trí tuệ
hoàn hảo và phương tiện thiện xảo thì thật đúng là sự chuyển hóa
vĩ đại của Bồ tát…Bởi vì nó vượt lên mọi sự tích lũy công đức
của Bồ Tát, có được từ bố thí cho ai đó, mặc dù là rất lớn.
Lúc này, 100000 vị chư thiên trời 33 mưa thiên hoa, hương thơm,
lọng, hương xoa, hương bột, châu báu và vải lụa xuống Phật. Những
người này thờ phụng Đức Phật với dù lọng, tràng phan, cờ, chuông và
cả hàng đèn, với sự thờ phụng bằng nhiều cách. Trỗi nhạc trời và
nói với Phật: Sự chuyển hóa của yếu tố của pháp quả thật đúng là
một sự chuyển hóa vĩ đại của một Bồ Tát, vì nó khác về mặt hành
vi và cách nhìn nhận so với cả khối công đức tích lũy từ sự bố
thí của Bồ Tát với cơ sở là bất kỳ thứ gì (having a basis), bởi vì
sự chuyển hóa này được nắm bắt bởi trí tuệ hoàn hảo và phương
tiện thiện xảo.
Tất cả mọi chư Thiên liền hiện ra, thờ phụng Đức Phật và cất
tiếng nói: Thật tuyệt vời, thưa Ngài, về sự chuyển hóa thiện căn
của những Bồ Tát đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo và phương tiện
thiện xảo. Nó rất khác với tất cả khối công đức của Bồ tát nếu
người này giữ một cơ sở nào đó, mặc dù đã tích lũy làm việc này
rất lâu, và được thể hiện bởi nhiều sự cố gắng.
Bây giờ Phật nói với những vị chư Thiên: từ những vị đến từ
cõi Thanh Tịnh trở xuống: Hãy bỏ qua giả thiết tích lũy của công
đức của tất cả chúng sanh ở vô số thế giới phát tâm Bodhi và quyết
tâm thực thi, rèn luyện, và người bố thí để đạt được Bodhi. Cũng như
vậy, hãy xem xét trường hợp này, giả sử tất cả chúng sinh ở vô số
thế giới cũng nguyện chứng đạo Bodhi, và suy nghĩ về Bodhi, lại bố
thí nhiều như trên. Mặt khác chúng ta hãy xem xét một Bồ Tát, đi trên
con đường trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo, lấy thiện căn
của vô số Phật, Bồ Tát, Duyên Giác và Thanh Văn, và của tất cả
chúng sinh khác, những thiện căn mà họ gieo trồng, đã gieo hay sẽ
gieo, và từ đây tùy hỷ tất cả theo phương cách đã tả như trên. Thì
vị Bồ Tát trước tuy có thu thập nhiều công đức nhưng cũng rất nhỏ so
với vị này, chỉ vì vị trước còn nhận thức một cơ sở.
Subhuti: Đức Phật đã nói công đức tùy hỷ thiện căn của tất cả
mọi người là sự tùy hỷ rất xuất sắc, vậy vì lý do gì mà nó xuất
săc như vậy?
Phật: Nếu những ai thuộc Bồ Tát thừa mà không nắm giữ lấy
pháp quá khứ, hiện tại và vị lai, không nghĩ tới (does not mind),
không tiến tới, không kiến tạo (construct), không phân biệt, không thấy
hay không xem xét chúng, nếu người này nghĩ tin chắc thật rằng tất
cả các pháp đều được tạo ra từ suy nghĩ (thought construction), không
sinh, không tiến, không đến, không đi, và không có pháp nào được tạo ra
ở quá khứ hay dừng lại ở quá khứ, hiện tại hay vị lai; nếu có
người nghĩ về pháp như vậy thì sự tùy hỷ của người này hợp nhất
với tính thực của các pháp, và chính vì điều này mà sự chuyển
hóa công đức thành Bodhi được thành tựu. Đây là lý do vì sao sự tùy
hỷ của Bồ Tát là một điểu rất xuất sắc. Công đức của Bồ Tát có
được từ sự bố thí nhưng lại nhìn nhận thấy một cơ sở, hay có ý
nghĩ về cơ sở thì nhỏ hơn nhiều và rất khác so với sự chuyển hóa
thiện căn của Bồ tát. Hơn thế nữa, Subhuti, người nào thuộc Bồ Tát thừa
mà muốn tùy hỷ công đức của tất cả Phật thì tùy hỷ như vầy: “Cũng
như sự giải thoát thì không có sự khởi đầu, điểm bắt nguồn (vì các
lậu tận từ những thứ nhìn thấy được đã hết) cũng như vậy đói với
bố thí, đạo hạnh, vv…cũng như vậy đối với sự tùy hỷ, công đức từ
sự tùy hỷ, như sự giải thoát, sự chuyển giao cũng vậy, các Đức
Phật đã nhập Nirvana cũng vậy, giống như sự giải thoát, sự chuyển
hóa cũng vậy, và tất cả các pháp được xem như là quá khứ, hay đã
ngừng lại, cũng giống như vậy những pháp được xem như là tương lai,
và chưa được sản sinh, và cả những pháp ở hiện tại, đang được diễn
tả, vì có giải thoát nên ta cũng thấy được tất cả Phật quá khứ,
hiện tại và vị lai. Chính vì vậy con tùy hỷ với sự tùy hỷ xuất
sắc nhất đối với sự thật của các pháp, vốn không bj trói buộc,
không thả (unfreed), không bám chấp (unattached). Vì vậy bây giờ con
chuyển hóa công đức từ sự tùy hỷ
này đến vô thượng Bodhi; nhưng thực sự thì không có sự chuyển hóa
nào diễn ra cả, bởi vì không có sự việc nào ra đi, không có sự việc
nào mất đi. Đây là lý do vì sao sự tùy hỷ của Bồ Tát là một việc
xuất sắc.
Nhưng bây giờ hãy quay lại vấn đề về công đức, hãy xem xét nếu
tất cả chúng sinh ở vô số thế giới đều quyết tâm hướng đến Bodhi,
và để làm như vậy thì những người này, trong vô số kiếp, giữ gìn
đạo hạnh, làm thiện nghiệp thân khẩu ý, nhưng vẫn nhận thấy một cơ
sở. Mặc dù vậy, công đức của những người này gộp lại cũng không
bằng công đức của sự hỷ xả vô biên của Bồ Tát có từ sự tùy hỷ,
đơn giản là vì những người này trong vô số kiếp nhận thấy có cơ sở.
Điều này cũng đúng nếu những người này thực hành nhẫn nhục trong vô
số kiếp, mặc dù những người này bị đánh đập, hãm hại và chê cười,
hoặc những người này thực hành tinh tiến, không khi nào chùn bước,
hay bị chế ngự bởi sự lười biếng, hay là những người này nhập
thiền. Khi nào mà những người này còn nhận thây một cơ sở trong khi
làm những việc trên thì công đức của họ sẽ vẫn rất nhỏ so với Bồ Tát
tùy hỷ với thiện căn của mọi người, vô cùng xuất sắc nhưng với sự
tùy hỷ xả, và chuyển hóa hết thảy thiện căn này thành toàn giác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét