Chương XVII
Một số dấu hiệu của bất thoái chuyển
Subhuti: Thưa Ngài, đâu là dấu hiệu của Bồ Tát bất thoái
chuyển, và làm sao mà ta biết Bồ Tát này bất thoái chuyển?
Phật: Những cấp độ như là “chúng tôi là người thường”, hay
“chúng tôi là Thanh Văn”, hay “chúng tôi là Duyên Giác”, hay, “chúng tôi
là Phật”- tất cả cấp độ này và chúng ta gọi là “cấp độ của sự
thể như vậy”. Suy nghĩ cũng vậy, tất cả là sự thể như vậy, không 2,
không phải 1 chia thành nhiều, không phải được phân biệt từ số đông,
không phải không phân biệt, Bồ Tát thì cũng ở trong sự thể như vậy
và không nằm ngoài bản tính này của pháp. Khi biết được ta đứng
vững trên sự thể như vậy, người này không tưởng tượng hay phân biệt
gì trong việc này. Khi đã biết được như vậy thì sự việc này người
này biết. Khi đã biết được, ngay khi rời khỏi hội, vì sự nghe pháp
cũng nằm trong sự thể như vậy, người này không và không thể do dự
trong bất cứ hoàn cảnh nào, không rối trí, không nghi ngờ, không u mể
bởi suy nghĩ rằng “nó không phải là như vậy”. Mặc khác, người này
chín chắn nhận định rằng “nó là như vậy, chính là sự thể như vậy”,
và khi biết được thì họ thấy chính họ cũng như vậy. Chính vì vậy,
người này không nói lung tung suy nghĩ nào chợt hiện lên trong đầu
mình. Người này chỉ nói khi thấy nó có lợi cho người khác, và không
nói nếu không có lợi. Người này không nhận định xem người khác nên
hay không nên làm việc gì. Khi có những thuộc tính như vậy, dấu hiệu
như vậy thì Bồ Tát giữ trong trí mình là bất thoái chuyển trước Bodhi.
Bồ Tát bất thoái chuyển
không đi đến chỗ ngoại đạo (Brahmins of other schools) và nói rằng
những gì họ biết là hữu ích, những gì họ nhìn thấy là hữu ích
Bồ Tát không kính lễ những vị Thánh lạ, không hiến cúng hoa,
hương, vv và không đặt niềm tin vào những người này. Bồ Tát không tái
sinh vào chỗ khốn khổ, cũng không trở thành giới tính khác. Hơn nữa,
Subhuti, Bồ Tát bất thoái
chuyển thì hành thập thiện. Người này thực hành, và khuyến khích
người khác không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, uống rượu, nói dối, nói
lời ác, nói nặng, nói lung tung, không ham muốn, không ý xấu, không tà
kiến.
Sự thật là Bồ Tát bất
thoái chuyển thì hành thập thiện và khuyến khích người khác làm như
vậy, giúp đỡ, hỗ trợ họ. Ngay trong mơ thì Bồ Tát cũng không phạm 10
điều này, và cũng không suy nghĩ tới trong đầu. Ngay trong mơ thì Bồ
Tát bất thoái chuyển cũng giữ 10 thiện này trong trí. Và Bồ Tát
bất thoái chuyển thì học 1 quyển Kinh pháp, lại hiến tặng cho người
khác, suy nghĩ rằng mình đã giúp cho sự an vui của những chúng sinh
như vậy, và hiến cũng pháp này cho tất cả, không phân biệt
Hơn nữa, khi pháp thâm sâu
đang được diễn giảng thì Bồ Tát không do dự, không rối trí, không nghi
ngờ hay u mê. Người này toàn nói những điều có lợi, nói vừa phải
và nhẹ nhàng. Người này ít lười biếng và uể oải, không còn hướng
đến điều ác. Khi đến hay đi thì tâm vẫn không dao động, mà luôn cố
định. Khi đi một bước thì biết mình đang làm gì, khi đặt chân lên hay
xuống thì không chần chừ hay vội vã, nhưng luôn thanh thản. Áo của Bồ
Tát thì không có rận, thói quen của người này luôn thanh tịnh, ít
bệnh, ít khổ. Trong thân thì 80000 loài giun thường có trong cơ thể
người khác thì không sinh sống được, vì những căn lành của người này
khẳng định vị trí của họ trên toàn thế giới. Và khi những căn lành
tiếp tục được vun trồng thì người này có được thân, ý, khẩu thuần
khiết.
Subhuti: Vậy ý nghĩ thuần
khiết của Bồ tát là thế nào?
Phật: Khi những căn lành
tiếp tục nảy nở thì người này sẽ có được tâm không lo toan, không
gian dối, lừa bịp, gian xảo, xấu ác. Hơn nữa, tâm người này cũng
vượt trên địa vị của Thanh Văn hay Duyên Giác, nhưng khí gặp họ thì
người này vẫn đồng tình với họ (accord), vẫn để ý đến sự thân
thiện và hỗ tương. Hơn nữa Bồ Tát bất thoái chuyển không chú trọng
đến lợi, danh, trang phục, đồ dùng, của bố thí, dược thảo khi bệnh.
Người này không ghen tị và tầm thường. Và khi pháp thâm sâu được diễn
giảng thì người này không thoái tâm, ngược lại trí tuệ tăng lên dần
dần, và trí tuệ cũng rất sâu. Người này nghe pháp từ người khác
một cách tôn trọng, muốn học hỏi. Tất cả các pháp nghe được thì
hội tụ lại thành Trí tuệ hoàn hảo, và tất cả nghề nghiệp, kỹ
thuật trên thế gian đều tụ lại theo như đúng bản tính của pháp, nhờ
Trí tuệ hoàn hảo. Người này không thấy pháp nào mà không gắn liền
với bản tính của pháp, và bất kỳ pháp nào người này thấy thì
cũng đơn giản là bổ sung thêm cho điều này (engaged in this effort).
Những việc Ma làm
Lúc này, ác Ma (được xem như một sinh linh), biến hiện ra cảnh
tượng của 8 địa ngụ lớn, với muôn ngàn, trăm ngàn Bồ Tát trong đó,
và nó nói với Bồ Tát bất thoái chuyển: “Những Bồ Tát mà Phật nói
là Bồ Tát bất thoái chuyển, đã xuống địa ngục rồi. Cũng như vậy,
vì ông được gọi là Bồ Tát bất thoái chuyển nên ông cũng xuống địa
ngục này. Hãy thú nhận đi, ý nghĩ
Bodhi này là một điều sai! Phật quả đối với ông là gì? Hãy bỏ đi!
Để tránh không tái sinh vào địa ngục. Khi làm như vậy thì ông sẽ sanh
thiên”. Vì tâm của Bồ Tát này không dao động, không thể dập tắt, kiên
định trong trí biết rằng Bồ Tát bất thoái chuyển không thể xuống
địa ngục ngoài ý muốn, đây cũng là một đặc tính của Bồ Tát bất
thoái chuyển.
Hơn nữa, Ma nói, dưới dạng của một Shramana: Hãy từ bỏ những
gì ông nghe đi! Khi ông đi theo lời khuyên này thì chúng tôi liên tiếp
đến với ông, và nói: Những gì ông vừa nghe không phải là lời nói
của Phật. Đây chỉ là thơ của người làm thơ. Những gì tôi dạy cho ông
đây mới chính là điều mà Phật dạy, là lời nói của Phật.” Khi nghe
được điều này thì Bồ Tát bị dao động và từ bỏ, ta biết rằng người
này không được Phật thọ ký, người này không chú tâm vào Bodhi, vì
không trụ tại sự bất thoái chuyển. Nhưng nếu người này nghe những gì
Ma nói mà không dao động, trụ lại theo bản tính này của pháp, sự vô
sinh, vô diệt, không bị ảnh hưởng, đây là người không đặt niềm tin của
mình vào người khác.
Một A la hán, hay tăng không còn lậu nữa thì không đi theo những
gì mà người họ tin tưởng nói, mặc khác họ trụ tại bản tính của
pháp ngay trước mắt họ…trước, vượt trên bất kỳ ai và bất cứ thứ
gì…và ác Ma không thể thâm nhập vào người này.
Cũng như vậy, Bồ Tát bất thoái chuyển thì không thể bị đánh
bại hay tang bốc bởi những ai thuộc Thanh Văn hay Duyên Giác thừa, và
vì bản tính này mà không trở xuống địa vị Thanh Văn hay Duyên Giác,
vì được cố định vào toàn giác, và kết thúc ở Bodhi. Bồ Tát bất
thoái chuyển thì không thể bị người khác làm chệch đường đi, đây là
điều chắc chắn.
Lúc này, có người đến với Bồ Tát bất thoái chuyển và nói:
Khi đi trên trí tuệ hoàn hảo tức là đi trên sanh tử, và không phải là
đường đi đến Bodhi. Nếu ông chấm dứt những khổ nào trong cuộc sống
này thì ông không còn chịu thống khổ và thất vọng gắn liền với sinh
tử. Đúng vậy, ngay trong đời này thì cá tính của ông là xong rồi,
cần gì phải lo cho người khác nữa? Ngay cả bây giờ thì Bồ Tát không
dao động hay thoái chí, ngay cả nế Ma có hiện đến và nói như vầy:
Hãy nhìn những Bồ tát trong vô lượng kiếp hiến cũng đồ dùng cho
Phât, sống thánh thiên giữa vô số Phật, tôn trọng vô số Phật, và hỏi
các Ngài về Bồ Tát thừa, Bồ Tát trụ ở đâu, nghe lời Phật và thi
hành theo.
Mặc dù những người này trụ như vậy, cố gắng như vậy nhưng ngay
hôm đó người này không biết được Bodhi! Họ trụ vững trong lời dạy
này, rèn luyện như vậy- nhưng vẫn không đến được toàn giác! Làm sao
mà ông biết được Bodhi? Ngay khi vậy, người này vẫn không do dự, và
ác Ma hiện ra một số tăng và nói: “Những tăng này toàn là A la hán,
không còn lậu tận. Những người này tìm đến Bodhi và đã đạt được
địa vị A la hán, và trụ tại đó. Làm sao mà ông biết được Bodhi? Bồ
Tát bất thoái chuyển thì tâm không dao động khi những điều này được
nói ra.
Khi tâm của Bồ Tát nghe được những điều can ngăn này mà vẫn
không đi xa khỏi bản tính thật của Pháp, không lùi bước, không thay
đổi ý định, vì họ biết được những hành động này của Ma xuất hiện
như chính là sự thật của nó, người này không thể không đạt được
toàn giác vì họ đi trên những ba la mật này.
Ma cũng không thể thâm nhập vào Bồ Tát không những học mà còn
rèn luyện chính xác theo pháp, không thiếu mất những sự rèn luyện
được miêu tả bởi Phật, vốn được điều chỉnh hoàn toàn theo những
hoạt động tâm thức gắn liền với những ba la mật này. Khi Bồ Tát nào
biết được những việc Ma là, khi nghe những lời khuyên can từ người lạ
thì người này không thoái tâm, không chùn bước, không thay đổi ý định,
và biết chính xác những hành động của Ma như thực thể của nó, đây
là một thuộc tính của Bồ Tát bất thoái chuyển
Lúc này Bồ Tát bất thoái chuyển không tập hợp lại (piece
together) sự nhìn nhận của các uẩn, và cũng không sản sinh ra. Vì Bồ
Tát bất thoái chuyển, qua pháp vốn vắng lặng không có đặc điểm riêng
của nó, thì chắc chắn được giải thoát, vì Bồ Tát không nắm lấy
(apprehend) ngay cả pháp mà chúng ta đang xem (ở bất cứ thời điểm
nào)…người này không gom tập, không sản sinh nó (pháp?)
Ta nói, “Bồ Tát là bất thoái chuyển khi biết được vô sinh pháp
nhẫn”. Đây cũng là một đặc tính nữa của bất thoái chuyển
Hơn nữa, Ma sẽ đến trong hình dạng của 1 tăng và nói với Bồ
Tát những điều sau: “Sự toàn giác này cũng giống như không gian. Đây
là pháp vốn không phải pháp, không tồn tại. Làm sao mà người nào có
thể trang nghiêm mình bằng pháp này, ai có thể biết được pháp này?
Ở đây không có ai tiến đi như vậy, không có ai biết được như thế, không
có gì để được biết, không có ai hiểu, không có gì để mà hiểu.
Chính vì ở mọi thời gian pháp này như không gian, chống lại thì thật
vô dụng (useless to resist), pháp nói rằng “người này biết được Bodhi”
thì được tiết lộ (revealed) và xem như là hành động của Ma, đây không
phải là lời nói của Phật. Thiện nam thiện nữ thì biết rằng cách suy
xét, kiểm tra phê bình này chính là hành động của Ma. Khi nghĩ như
vậy rồi thì người này yên trí, không lay động, không nghỉ ngơi. Đây
cũng là 1 đặc điểm của sự bất thoái chuyển.
Những đặc điểm của sự bất thoái chuyển
Lúc này, Bồ Tát bất thoái chuyển là người hỏi han những việc
vượt trội (inquire beyond), và vượt lên trên cấp độ Thanh Văn, Duyên
Giác, và tiến đến sự toàn giác. Theo như dự định, người này tiến
tới sơ thiền, 2, 3, 4 thiền, và trụ tại sự tập trung ở 4 thiền này.
Người này nhận ra được sự kiểm soát hoàn toàn của những thiền này,
nghĩa là người này nhập thiền, nhưng những tái sinh trong tương lai
thì người này không có ảnh hưởng (lên). Người này dựa vào sự tái
sinh ở pháp của dục giới (sense-desire sphere). Đây cũng là đặc điểm
của Bồ Tát bất thoái chuyển.
Hơn nữa, Bồ Tát bất thoái chuyển không đặt nặng vào danh,
tiếng. Không bám víu vào tên, hiệu. Tâm người này không thất vọng, và
chỉ muốn sự yên vui lợi ích cho mọi loài. Khi đi hay đến, tâm người
này không dao động, vẫn giữ được chánh niệm
Khi người này sống trong đời phàm tại gia (householder) thì
người này không ham thích những sự dễ chịu (pleasant thing), và cũng
không ham điều này nhiều. Bởi vì họ nhận biết rằng sự sở hữu những
việc dễ chịu chính là nỗi sợ hãi và ghê tởm. Khi sống trong rừng
rậm đầy kẻ cướp, người này ăn cơm trong nỗi sợ hãi, và luôn nghĩ
đến việc thoát thân, không nghĩ đến việc nghỉ ngơi.
Cũng như vậy, Bồ Tát bất thoái chuyển sống cuộc sống đời
thường, có được những sự dễ chịu nhưng cũng không quan tâm nhiều tới
chúng, không ham thích, không bị ràng buộc. Người này không thuộc loại
người ham thích những gì dễ chịu. Người sống cuộc đời tại gia với 5
dục này không làm ăn bất chính, ngược lại, làm ăn lương thiện. Người
này cũng không chết vì tội lỗi, cũng không gây hại người khác. Người
này khuyến khích mọi người nhận thức được niềm vui siêu việt này-
người có ích, người vĩ đại, người siêu việt, người xuất sắc, người
tuyệt vời, người nhiều lực, người cao siêu, người can đảm, người hùng
của mọi người, người lãnh đạo mọi người, cây huệ nước của mọi
người, liên hoa của mọi người, người thuần chủng, Rồng của mọi
người, sư tử của mọi người, người hướng dẫn mọi người! Bồ Tát sống
trong tinh thần này khi tại gia, cũng giống như (in as much as) những
người này được thấm nhuần bởi lực của trí tuệ hoàn hảo, và đây
cũng là một đặc điểm nữa của sự bất thoái chuyển
Lúc này, Vajrapani, Dược xoa vĩ đại, liên tục đi theo Bồ Tát
bất thoái chuyển. Bồ Tát không thể bị đánh bại bởi người hay ma.
Tất cả mọi chúng khó có thể chinh phục người này, và tâm của người
này không bị kích động. Năng lực của họ đều hoàn thiện, và không
thiếu gì cả. Người này có bộ phận (organ) của người có lực, không
phải người bất lực. Người này không lao vào thần chú, yểm, ngải,
công thức ma thuật, chú dược…vốn là việc mà người khác làm. Người
này kiếm sống lương thiện, không phải bất thiện. Tính cách thì không
thích cãi vả hay lý luận. Người này có chánh kiến, không nâng mình
khinh người. Người này có những đặc tính như vậy và nhiều nữa.
Người này không sự đoán đàn ông hay đàn bà nào sẽ có con trai hay con
gái. Những cách bất chánh nhằm khiến mình trở nên dễ ưa người này
sẽ không làm. Đây cũng là một đặc điểm nữa của sự bất thoái chuyển
Bây giờ, Subhuti, Ta sẽ nói lên những thuộc tính, và dấu hiệu
của Bồ Tát bất thoái chuyển. Nếu có được đặc tính này thì người
này bất thoái chuyển Bodhi. Lại
nữa, là gì? Như sau: Người này không bận tâm về những uẩn, trường
giác quan, những nguyên tố hay sự cùng sản sinh có điều kiện. Người
này không thích bàn luận về những điều thường được nói trong xã hội
như vua, kẻ cướp, quân đội và chiến trường, làng xóm, thành thị,
chợ, quốc gia, vương quốc, thủ đô, về chính mình, quan, đại thần, phụ
nữ, đàn ông hay vô tính, về con đường, công viên, tu viện, cng điện,
hồ, vũng, vũng hoa sen, rừng, vườn và núi, về Dược xoa, La sát, ngạ
quỷ, Pishacas, quỷ Kataputana và quỷ Kumbhanda (Cưu bàn trà?); về thức
ăn, uống, quần áo, trang sức, hương hoa, chợ, kiệu và người, về những
bài hát, vũ điệu, câu chuyện, diễn viên, người ca vũ, hát rong, về
biển, sông, hải đảo
Người này không nói tới những chuyện làm cản trở pháp (talk
which obstruct dharma), những chuyện mà người thường thích nói, nhưng
người này nói về trí tuệ hoàn hảo, và người này không thiếu khả
năng suy nghĩ liên quan đến sự toàn giác. Người này tránh những
chuyện về cãi vã, đánh nhau. Người này mong muốn điều đúng và không
phải điều sai. Người này ca ngợi nhưng không gây chia rẽ, không vì mục
đích chia rẽ. Người này mong muốn có bạn, không phải ngược lại. Họ
nói về pháp, không phải ngược lại. Những người này muốn thấy được
Phật ở thế giới khác và vì vậy liên tục sản sinh ra suy nghĩ hướng
đến sự có mặt của Phật (lead to their presence). Nhờ vậy mà người
này luôn đến gần Phật, và không thiếu mất sự thấy hình ảnh của
Phật, hay cũng không thiếu cơ hội để tôn thờ và phục vụ các Ngài
Hơn nữa, Bồ Tát bất thoái chuyển chấm dứt cuộc sống ở chư
thiên- bất luận là cõi dục, sắc hay vô sắc- người này ở vùng trung
lập, ở Jambudvipa. Vì ở những nơi biên địa thì chỉ có một số ít
người có tri thức về họa, thơ, chú, kho tàng bí mật, những luận
thuyết, điều kỳ diệu cũng như ý nghĩa của tôn giáo, những ở khu
trung tâm thì những thứ này có nhiều. Nhưng nếu người nào ra biên địa
thì họ có thể được trở về tại thành thị. Đây cũng là dấu hiệu
của bất thoái chuyển.
Hơn nữa, Bồ Tát bất thoái chuyển thì không tự hỏi mình có
thoái chuyển hay không. Người này không hỏi như vậy, vì họ không phải
không chắc chắn về cấp độ, giai đoạn của họ, và họ không sụt xuống
dưới đây. Cũng như người quả Dự Lưu thì không do dự hay nghi ngờ về
quả Dự Lưu, nếu nó chính là điều thích đáng của người này, cũng
như vậy Bồ Tát bất thoái chuyển không hỏi hay nghi ngờ về giai đoạn
này của Bồ Tát, vì đây là điều thích đáng của người này, ở đây
không có sự không chắc chắn rằng giai đoạn đây có đúng không, và người
này cũng không hạ xuống dưới giai đoạn này. Và người này nhanh chóng
thấy được những hành động của Ma, và không bị Ma ảnh hưởng.
Người tạo một trong tội nặng (deadly sin- Vô gián?) thì cho đến
lúc chết cũng không quên mất hành động của mình, không thể loại bỏ
được chúng, nhưng hành động này theo người này cho đến chết. Cũng như
vậy, tâm bất thoái chuyển của Bồ Tát bất thoái chuyển trụ vững tại
giai đoạn bất thoái chuyển này, vốn là điều thích đáng của người
này (one’s right), và nếu có cả thế giới, với chư thiên, nhân loại, A
tu la, cũng không thể lay chuyển người này khỏi đây. Người này nhận
biết những hành động – hay được xem là hành động của Ma, và khi
biết, họ không bị chúng tác động.
Người như vầy không còn do dự hay nghi ngờ về giai đoạn mà
người này đạt được, ngay khi không còn sống nữa thì những suy nghĩ
đặc thù của Thanh Văn hay Duyên Giác cũng không khởi lên. Khi người này
vượt khỏi kiếp sống này, họ nghĩ: “Ở đây không có ai không đạt được
Bodhi. Tất cả mọi người đều sẽ đạt được Bodhi, tôi đứng vững trên
giai đoạn (stage) mà tôi nhận thức nó như vậy.
Người này không thể bị người khác dẫn đi sai, và trong giai
đoạn của bất cứ ai theo lẽ tự nhiên (stage which is anyone’s by nature),
người này không thể bị đánh bại hay tâng bốc, nếu người này theo
tính tự nhiên của họ tuân theo nguyên tắc Sự thể như vậy trong tất cả
và như tất cả, và vượt trên như vậy, như là như vậy (as such is). Bởi
vì, nếu người này đứng vững như vậy thì tâm là rất siêu việt
(insuperable) và suy nghĩ cũng vậy. Giả sử Ma, ẩn dưới hình tướng
của Phật, đến nói với người này: Hãy nhận thức A la hán quả nhay
trong đời này đi! Ông không thể đạt được Bodhi. Ông không có những
thuộc tính, dấu hiệu mà Bồ Tát có để được Bodhi, vậy vì sao bây
giờ ông lại đi trên con đường này?
Nếu Bồ Tát bị thoái tâm thì ta biết người này chưa được Phật
thọ ký trong quá khư. Mặc khác, nếu người này nghĩ “Ta thấy việc
này chắc chắn là do Ma làm, đến đây nhờ ma lực, ẩn dưới hình dạng
của Phật, vì tất cả đều là do Ma tạo ra, đây cũng là do biến hiện
của Ma, chắc chắn không phải là Phật
Phật nói rằng 1 người không chỉ đạt đến quả A la hán, và cũng
không khác (A Tathagata speaks to the effect as one not realizing only
Arhatship, and not otherwise) , như người này thấy và hiểu
“Tôi thấy như vầy, chắc chắn đây là ma giả Phật, và muốn tất cả
chúng sinh xa lìa Bodhi” và khi người này nghĩ như vầy thì Ma bỏ
đi…Bồ Tát này trong quá khứ đã được thọ ký và trụ vững tại địa
vị bất thoái chuyển. Khi Bồ Tát có những thuộc tính và dấu hiệu
như vầy thì, không nghi ngờ gì nữa: -khi người này có những giá trị
như vậy thì chắc chắn đã được Phật thọ ký trong, và trụ vững tại
địa vị bất thoái chuyển của Bồ Tát, và khi có những thuộc tính và
dấu hiệu của Bồ Tát bất thoái chuyển, đây cũng là một dấu hiệu
của bất thoái chuyển
Hơn nữa, Bồ Tát bất thoái chuyển để có
được pháp này thì bỏ cả thân mạng và của cải. Người này cố gắng
tột bực để đạt được phpas này, nhờ lòng kính yêu và tôn trọng chư
Phật trong quá khứ, vị lai, hiện tại- pháp thân chính là Phật”…người
này không chỉ thấy pháp này là Phật quá khứ, mà cũng là Phật hiện
tại và tương lai. Người này tin chắc như vậy, đứng trong hàng ngũ
người sẽ trở thành Phật tương lai…khi người này được thọ ký Bodhi
thì ta biết người này đã có được pháp tốt này. Và vì vậy, giữ
những suy nghĩ này trong trí, để đạt được pháp yếu này, cần phải
từ bỏ cả thân mạng và của cải, vì người này không thoái tâm, không
lười biếng. Đây cũng là dấu hiệu của bất thoái chuyển. Hơn nữa, khi
Phật nói pháp thì Bồ Tát bất thoái chuyển không do dự hay nghi ngờ
Subhuti: Vậy người này cũng không do dự, nghi ngờ khi Thanh Văn
diễn nói pháp sao?
Phật: Không, người này không do dự. Vì Bồ Tát đạt được vô sinh
pháp nhẫn, hay được sinh, có thể sinh thì không nghi ngờ, do dự khi
nghe được bản tính tự nhiên thật và không chướng ngại cảu tất cả
các pháp. Có được những đặc tính này thì Bồ Tát là bất thoái chuyển. Đây cũng được biết như là dấu
hiệu của Bồ Tát bất thoái chuyển Bodhi
Chương XVIII
Sự vắng lặng
Trạm không thể nghĩ bàn.
Subhuti: Thưa Ngài, thật tuyệt vời, Bồ Tát có
được những phẩm chất vĩ đại, vô tận không thể tính toán
Phật: Đúng vậy, Subhuti. Bồ Tát bất
thoái chuyển tiết lộ cho chính mình và người khác rằng sự hiểu
biết thuần khiết và không phân biệt là vô sinh, bẩm sinh và đơn giản
là vượt lên trên những khái niệm cố định như “của tôi và của người
khác”, và cũng vượt trên những khái niệm sinh ra từ các uẩn. Sự thể
như thật được biết đến như là sự thật của sự không trung tâm
(center-lessness), không giới hạn, không khởi đầu và không kết thúc, và
là điều mà Thanh Văn và Duyên Giác không biết đến (have no claim)
Subhuti: Phật đã nói về những thuộc tính và dấu hiệu của Bồ Tát bất thoái chuyển. Thật là vượt trên cả những tiêu
chuẩn và tập quán. Vậy bây giờ Ngài có thể diễn nói những vị trí
không thể nghĩ bàn của Bồ Tát như là được nối (liên quan) với (as are
connected through) trí tuệ hoàn hảo không thể nghĩ bàn?
Phật: Nói hay lắm, Subhuti. Sự thật là ông nhắc
đến vị trí không thể nghĩ bàn vì ông cũng muốn nghe về việc này.
Subhuti, “Không thể nghĩ bàn” là sự vắng lặng, cũng là đồng nghĩa
với không dấu hiệu, không ước muốn và không bị ảnh hưởng
(unaffectedness). Vô sinh là không sinh, vô tư trước sự diệt, Nirvana và
ra đi
Subhuti: Vậy nó chỉ đồng nghĩa với những sự
việc này thôi, hay là cũng của tất cả các pháp?
Phật: Đúng vậy, Subhuit, đây là đồng nghĩa với tất cả các pháp, vì 5 uẩn thì không thể nghĩ bàn. Đối với bất cứ pháp nào thì sự không thể nghĩ bàn cũng đồng nghĩa với tất cả và như là tất cả (synonymous as such), không có giới hạn. Vì sao 5 uẩn lại là không thể nghĩ bàn? Vì các uẩn thì không thể nghĩ bàn giống như sự thể như vậy. Vì sự không thể nghĩ bàn của sự thể như thật (unfathomable suchness) thì cũng là bất kỳ và tất cả uẩn, vv không gì khác (to include nothing throughout), ngay cả như không phải uẩn (no skandha)…5 uẩn thì hoàn toàn không thể nghĩ bàn. Ngay cả khi (Even as) ở đây không có hình tướng, vv (5 uẩn), đây chính là sự không thể nghĩ bàn của 5 uẩn
Phật: Đúng vậy, Subhuit, đây là đồng nghĩa với tất cả các pháp, vì 5 uẩn thì không thể nghĩ bàn. Đối với bất cứ pháp nào thì sự không thể nghĩ bàn cũng đồng nghĩa với tất cả và như là tất cả (synonymous as such), không có giới hạn. Vì sao 5 uẩn lại là không thể nghĩ bàn? Vì các uẩn thì không thể nghĩ bàn giống như sự thể như vậy. Vì sự không thể nghĩ bàn của sự thể như thật (unfathomable suchness) thì cũng là bất kỳ và tất cả uẩn, vv không gì khác (to include nothing throughout), ngay cả như không phải uẩn (no skandha)…5 uẩn thì hoàn toàn không thể nghĩ bàn. Ngay cả khi (Even as) ở đây không có hình tướng, vv (5 uẩn), đây chính là sự không thể nghĩ bàn của 5 uẩn
Subhuti: Thật tuyệt vời, thưa Ngài, phương kế
tinh tế như vậy, cho phép sự tương đối của 5 uẩn và chỉ rõ Nirvana
không thể nghĩ bàn trong cùng một lúc.
Làm thế nào để tham dự trí tuệ hoàn hảo
Phật: Khi Bồ Tát suy tư và nhận xét về những vị trí không thể nghĩ bàn này vốn liên quan đến trí tuệ hoàn hảo
không thể nghĩ bàn, và cố sức trụ, rèn luyện và phát triển như
được chỉ, diễn tả và giải thích trong trí tuệ hoàn hảo này, lúc
này, khi người này làm như vậy trong 1 ngày thôi thì những việc người
này làm trong 1 ngày cũng thật là lớn lao! Như một người, kích động
(moved) bởi những suy nghĩ tham lam, liền hẹn hò (date) với 1 người
đẹp, dễ nhìn, quyến rũ, như bây giờ người bị giữ lại bởi một cái
gì đó và không rời ngôi nhà của mình, ông nghĩ thế nào, Subhuti,
người này sẽ gắn kết, chọn lựa sự quan tâm gì?
Subhuti: Hẳn là với người kia rồi. Người này
nghĩ về việc người này đên, những việc họ làm chung, về niềm vui,
sự vui thích người này có được từ người kia.
Phật: Vậy người này có suy nghĩ nhiều về vấn
đề này trong ngày không?
Subhuti: Nhiều, thưa Ngài
Phật: Người này nghĩ nhiều về điều này thế
nào trong 1 ngày, cũng như vậy trong mỗi rung động bao gồm mỗi một suy
nghĩ từ mỗi ý tưởng, hàng trăm, hàng ngàn, trăm ngàn ức triệu kiếp
cho mỗi một rung động này, Bồ Tát từ bỏ sinh tử, quay lưng đi và
quyết tâm chấm dứt nó
Công đức
Khi một người trụ, rèn luyện, phát triển,
thiền và nỗ lực như những gì được nói trên, giải thích và miêu tả
như trong trí tuệ hoàn hảo, những chướng ngại và cấu bẩn làm nguyên
nhân thoái chuyển Bodhi bị tan biến. Khi Bồ Tát nỗ lực hiến mình cho
trí tuệ hoàn hảo, và làm những việc như vậy trong 1 ngày, cùng lúc
suy tư hoàn toàn về trí tuệ hoàn hảo; và lại có 1 Bồ Tát khác
không gắn kết với trí tuệ hoàn hảo, nhưng lại bố thí trong vô số
kiếp, vv Bồ Tát trong 1 ngày nỗ lực thực hành theo trí tuệ hoàn hảo
thì có những thuộc tính tinh khiết hơn
Bồ Tát trong 1 ngày nỗ lực thực hành theo trí
tuệ hoàn hảo thì có công đức khác với công đức vĩ đại nhất của Bồ
Tát khác trong vô số kiếp hiến cúng cho đủ mọi Thánh nhân, từ Dự Lưu
đến Phật quả- nhưng lại thiếu sự quyết định liên quan đến trí tuệ
hoàn hảo. Và, nếu Bồ Tát kia không những bố thí như trên đã nói, mà
còn giữ đạo hạnh- nhưng lại thiếu sự quyết định liên quan đến trí
tuệ hoàn hảo, thì Bồ Tát trụ tại trí tuệ hoàn hảo có công đức
khác hơn, vì người này xuất phát từ hoạt động tâm thức liên quan đến
trí tuệ hoàn hảo, và diễn pháp. Và điều này cũng đúng nếu như
những Bồ Tát khác cũng thực hành nhẫn. Ngay cả nếu họ tinh tấn,
thiền định và tiến đến cứu cánh Bodhi, nhưng lại thiếu mất trí tuệ
hoàn hảo…Một Bồ Tát, khi hiến tặng món quà pháp này, như trên đã
nói, chuyển giao công đức thành Bodhi, người như vậy có được công đức
khác hoàn toàn, lợi ích cho tất cả mọi người, khác hơn Bồ Tát chưa
suy tư đến trí tuệ hoàn hảo. Công đức của Bồ Tát mà không chỉ hiến
tặng pháp, chuyển giao thành Bodhi, mà lại còn chuyển giao như vậy
theo cách được nói ở trí tuệ hoàn hảo này thì có được công đức
cũng khác nữa…không thể tính đếm như là “nhiều hơn hay ít hơn”. Thế
nên, khi Bồ Tát làm những điều này, không dụng công nhiều hơn là
những gì thấy được và sờ được khi đang tọa thiền, thì người này
công đức đúng là lớn. Nhưng người nỗ lực về suy tư về điều này khi
đang tọa thiền, và hơn nữa lại còn trụ tại trí tuệ hoàn hảo, đi
trên con đường trí tuệ hoàn hảo, và mở (tầm nhìn?) trong lúc thiền
(open in this mediatative seclusion), không thiếu mất trí tuệ hoàn hảo.
Người sau này có công đức khác nữa.
Không thể tính toán, sự vắng lặng và đối
thoại.
Subhuti: Làm sao mà ta có thể nói là đạt được
công đức lớn hơn khi mà Phật đã nói tất cả sự tích góp đều là kết
quả của sự phân biệt sai trái
Phật: Trong trương hợp này cũng vậy, sự tích
lũy công đực của Bồ Tát đi trên trí tuệ hoàn hảo thì phải được xem
là vắng lặng, vô giá trị, nhỏ nhặt và không nhiều. Khi mà Bồ Tát
quán xét tất cả các pháp theo cách này nhường nào thì người này
gắn kết với trí tuệ hoàn hảo nhiều nhường ấy. Và người này gắn
kết với trí tuệ hoàn hảo nhiều nhường nào thì đạt được công đức
nhiều nhường ấy, vô biên không thể tính toán, vượt lên sự chia loại
của (sự chia loại này sẽ có kết quả là: sự tích lũy sẽ được xem
là có giá trị)
Subhuti: Vậy có sự phân biệt hay khác biệt nào
giữa không thể đo lường và không thể tính toán chăng?
Phật: Không thể đo lường có nghĩa là ngay cả
sự đo lường cũng không có, và cũng không thể diễn ra. Không thể tính
đoán nghĩa là không thể dùng công sức hay lý trí để mà tính, không
có con số để đếm được 1 hay nhiều, ngay cả 1 người chia làm nhiều
người cũng không được
Subhuti: Vậy có lý không nếu ta giả sử các uẩn
cũng là không thể đo lường?
Phật: Đúng vậy
Subhuti: Vây từ “không thể đo lường” này đồng
nghĩa với gì?
Phật: Chẳng phải các pháp được miêu tả là
“vắng lặng”?
Subhuti: Đúng vậy, và đơn giản như vậy, vì Phật
nói các pháp thì khá vắng lặng
Phật: Vì vắng lặng, và là không nên sự vắng
lặng cũng là vô cùng. Và những gì là vắng lặng cũng là không thể
đo lường. Nên bây giờ, theo như sự thật cơ bản, thì không có sự phân
biệt nào được nắm bắt giữa các pháp, và cũng không có sự “giữa” để
mà bắt đầu giả sử được. Phật nói đây chỉ là cách nói (talk). Một
người thì đơn thuần chỉ là nói khi người này nhắc đến “không thể đo
lường”, hay “không thể tính đoán”, hay “không hết”, hay “sự vắng lặng”,
“không dấu hiệu”, “không ước muốn”, “không bị ảnh hưởng”, “không sinh”,
“không sản sinh”, “không tồn tại”, “vô tư”, “diệt”, “Nirvana”. Việc nói
này được Phật gọi là sự hoàn thành của sự diễn giảng
Subhuti: Thật tuyệt vời khi được nghe Phật miêu
tả bản tính thực của pháp, và tuy vậy không ai có thể nói được hoàn
chỉnh bản tính thật của pháp, như con hiểu được ý nghĩa của những
gì Phật dạy thì không có pháp nào được nói đến, theo bất cứ nghĩa
gì.
Phật: Đúng như vậy, vì không ai có thể diễn tả
được sự vắng lặng của pháp bằng ngôn từ, và luôn luôn, mãi mãi như
vậy
Không tăng không giảm
Subhuti: Vậy có thứ gì thật sự tăng, hay giảm,
vì nó nằm vượt trên từ để phân biệt, và trên cả tính cách?
Phật: Không, Subhuti
Subhuti: Vậy nếu không có sự tăng hay giảm của
các pháp hay sự tồn tại, vốn vượt trên các từ dùng để phân biệt và
tính cách, vậy thì cũng không có sự tăng hay giảm của 6 ba la mật
này. Và vì vậy, làm sao mà Bồ Tát có thể nhận biết Bodhi nhờ năng
lực của 6 ba la mật này, vì chúng không tăng, làm sao mà nhận biết
được Bodhi, vì nếu không hoàn thiện 6 ba la mật này thì không thể đạt
được Bodhi
Phật: Đúng vậy, Subhuti. Ở đây không có sự tăng
hay giảm của sự hoàn hảo-sự tồn tại. Bồ Tát đi trên trí tuệ hoàn
hảo và cảm thấy thích thú đối với trí tuệ hoàn hảo, lại thiện
xảo phương tiện thì chắc chắn không nghĩ “bố thí ba la mật này tăng
trưởng, hay giảm đi”. Mặt khác, người này biết rằng “bố thí ba la
mật này chỉ là ngôn từ và là một tính cách”. Khi người này bố thí
thì họ đã chuyển giao tất cả “công đức” như vậy: hoàn toàn trong sự
phản ánh bình thản cho bất cứ trách nhiệm nào ( equanimous
reflection for any accountability ), người này biết rằng công đức không thể ở bên ngoài hay được
thêm vào sự toàn diện vô tận của sự không vắng lặng, vì nó hoàn
toàn luôn luôn có mặt…chỉ là sự nhận ra một cách đơn giản rằng ngay
cả những hoạt động trí óc, những suy nghĩ, căn lành có được nhờ bố
thí, thì đều hướng đến và cho sự an vui, lợi ích của tất cả mọi
người. Mặc dù vậy, khi nhận thức như vậy người này chuyển giao theo 1
cách “tự động” nhưng vẫn tôn trọng sự thật của Bodhi. Người này tiếp
tục quá trình này khi tiếp nhận, thi hành những bổn phận đạo đức,
và tự hoàn thiện chính mình trong nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí tuệ, cùng lúc người này phát triển và giữ vững sự ưa thích nơi
trí tuệ hoàn hảo. Ông có thấy không?
Subhuti: Vậy bây giờ, Bodhi vô thượng là gì?
Phật: Nó chính là sự thể như vậy, Subhuti. Tuy
vậy, Sự thể như vậy thì không tăng không giảm. Bồ Tát thường xuyên an trụ
tại những hoạt động tâm thức liên quan đến sự thể như vậy thì trụ
gần Bodhi, và những người như vậy không mất đi những hoạt động tâm
trí. Việc này là chắc chắn bởi vì ở đây không có sự tăng hay giảm
của bất kỳ sự thể nào của pháp vì pháp thì vượt trên cả ngôn từ
và tính cách, và ở đây không có sự hoàn hảo, không có pháp nào mà
tăng hay giảm. Bồ Tát suy tư như vậy thì là đến gần tới Bodhi, nhưng
trong sự thể như vậy thì không có sự suy nghĩ xa gần, cũng như không
có sớm hay muộn, Subhuti, đây là tất cả (những gì nói được?). (this
is all)
Chương XIX
Nữ thần sông Hằng
Sự cùng sản sinh có điều kiện
Subhuti: Khi Bồ Tát nhận thức được Bodhi thì đây
có phải là vì sự sản sinh của suy nghĩ đầu tiên của Bodhi, hay là
suy nghĩ sau cùng của Bodhi? 2 suy nghĩ này thì không được tổng hợp ở
đâu (và cũng không hợp lại để tạo nên thành quả). Vậy sự tích lũy
công đức của Bồ Tát diễn ra như thế nào?
Phật: Ông nghĩ sao, Subhuti, tâm đèn dầu này có
bị cháy lúc mới thắp đèn, hay lúc đèn mới tắt?
Subhuti: Không thể như vậy, thưa Ngài! Nó không
cháy lúc mới thắp, nhưng lại phụ thuộc vào điều này, nó cũng không
bị cháy lúc đèn sắp tắt, nhưng lại không phải không phụ thuộc vào
điều này.
Phật: Vậy lúc này tâm đèn có chắc chắn bị
cháy không?
Subhuti: Có, thưa Ngài
Phật: Cũng giống như vậy, không phải nhờ suy
nghĩ đầu tiên hay cuối cùng của Bodhi mà người này đạt được Bodhi,
nhưng cũng không phải không phụ thuộc vào điều nay. Ta không biết được
điều này (Bodhi?) nhờ vào sự sản sinh của suy nghĩ, nhưng cũng không
phải ngoài suy nghĩ này. Tuy vậy, người này vẫn nhận thức được
Bodhi.
Không phát
triển
Subhuti: Sự đồng sinh có điều kiện này thật
sâu!
Phật: Subhuti, vậy một phần rất nhỏ của suy
nghĩ đầu tiên…hoặc là lúc mới xuất hiện, hay trong lúc diễn ra suy
nghĩ này, hay lúc cuối…có vẻ như đã chấm dứt sau sự hiện diện ngắn
ngủi của nó…vậy suy nghĩ này có được sinh lại nữa vào lúc suy nghĩ
thứ 2 xuất hiện không? Hãy suy nghĩ, Subhuti, vậy còn sự khởi đầu
của sự khởi đầu, trong lúc của trong lúc, vv chúng có được sản sinh
nữa không?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Còn nữa, khi suy nghĩ được sản sinh này
qua đi, vậy có phải nó chấm dứt bởi vì bản tính nó quy định như
vậy không?
Subhuti: Đúng vậy, thưa Ngài
Phật: Vậy mọi sự phải chấm dứt vì bản tính
của nó là như vậy, vậy nó có bị hủy diệt không/?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy suy nghĩ trong tương lai, vốn chưa được
sinh ra, nó có bị chấm dứt không?
Subhuti: Không thưa Ngài (vì chưa sinh thì làm sao
diệt)
Phật: Vậy nếu nó đến một thời điểm mà nó
phải chấm dứt theo tự nhiên, vậy nó có bị hủy diệt chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy bản tính tự nhiên của suy nghĩ này
không bao gồm sự sinh (khởi đầu) hay ngừng, vậy nó có bị dừng lại
không?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy nếu bất kỳ pháp nào, vì bản tính
tự nhiên của nó, dừng lại theo nghĩa vật lý (stopped already in ít
being), vậy pháp này có bị dừng lại không
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy bản tính thật của pháp có dừng lại
chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy Bồ Tát có trụ tại điểm này giống
như Sự thể như vậy trụ chăng?
Subhuti: Đúng vậy thưa Ngài
Phật: Vậy Sự thể như vậy có bị thay đổi từ
sự bất biến của nó chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Sự thể như vậy thì không thể dò tới
được
Subhuti: Thật vượt trên sự biết, thưa Ngài.
Phật: Vậy sự ở đây và bây giờ có phải là một
suy nghĩ trong Sự thể như vậy không?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy suy nghĩ có phải là sự thể như vậy
không?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy suy nghĩ có là gì khác sự thể như
vậy không?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy ta có thể thấy được Sự thể như vậy
không?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy người đi trên Sự thể như vậy thì
người này có đi trên sự không thể dò được không?
Subhuti: Người này không đi trên đâu cả. Vì những
ý nghĩ về sự thực hiện của người này không xuất hiện trong đầu
người này
Phật: Vậy Bồ Tát đi trên trí tuệ hoàn hảo thì
đi ở đâu?
Subhuti: Ở sự thật sau cùng (cơ bản)
Phật: Vậy khi đi trên sự thật sau cùng thì Bồ
Tát có dựa vào dấu hiệu không?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy dấu hiệu có phải là dấu hiệu, theo
nghĩa là người này không phá hủy nhờ sự thiền định của người này
không?
Subhuti: Bồ Tát không dụng công khi đi trên con
đường Bồ Tát, để đạt ngay trong kiếp này bất cứ trạng thái nào mà
tất cả dấu hiệu đều bị từ bỏ. Khi người này cố gắng để đạt ngay
trong kiếp này bất cứ trạng thái nào mà tất cả dấu hiệu đều bị
(người này) từ bỏ, bởi vì bất cứ hay tất cả Phật pháp thì không
thành thục, hoàn tất với người này, người này tự động được biết
đến là 1 Thanh Văn. Thiện xảo phương tiện của Bồ Tát nằm ở điểm
này, người này nhận thấy 1 dấu hiệu, nguyên do và đặc điểm của nó,
nhưng người này vẫn tuân theo sự không dấu hiệu.
Sariputra: Vậy khát vọng của Bồ Tát để đạt
được trí tuệ hoàn hảo thì có tăng lên không khi trong mơ người này
phát triển được 3 cứa giải thoát: Sự vắng lặng, không dấu hiệu,
không ước muốn.
Subhuti: Khi điều này tăng trưởng lúc ban ngày,
thì nó cũng tăng trưởng khi người này nằm mơ về điều này. Vì Phật
nói mơ và tỉnh là không có phân biệt, bản tính thì giống nhau. Khi
Bồ Tát khát vọng tới trí tuệ hoàn hảo, và mỗi ngày thì đi trên
trí tuệ hoàn hảo, thì trong mơ người này cũng ở gần trí tuệ hoàn
hảo, và vẫn phát triển được nhiều
Sariputra: Nếu trong giấc mơ người này làm nhiều
việc, dù là tốt hay xấu, vậy nó có được cộng vào nghiệp của người
này không?
Subhuti: Phật dạy tất cả các pháp đều như giấc
mơ, và là như vậy một cách vô tận, vì vậy, việc làm này không được
cộng vào nghiệp người này. Mặt khác, điều này trở thành nghiệp khi
người này tỉnh dậy và suy nghĩ về cơn mơ, và nhận thức ý nghĩ muốn
giết một ai đó. Người này làm như vậy bằng cách nào? Trong lúc mơ
người này mơ thấy giết một người, và khi tỉnh dậy người này nghĩ:
Thật tốt là kẻ này đã bị giết! Thật đúng là kẻ này đáng bị
giết! Chính kẻ này bị giết! Chính tôi là kẻ giết người này! Những
suy nghĩ như vậy thì đồng với ý muốn chủ đích muốn giết người.
Không có chỗ dựa khách quan và không có tự thể
cá nhân
Sariputra: Chính vì kết quả của việc suy nghĩ
có ý thức này mà hành động của người này được cộng vào nghiệp,
vậy nếu Phật tự suy nghĩ và suy nghĩ có ý thức rằng Ngài muốn
nhập diệt, vậy việc này có được cộng vào nghiệp không?
Subhuti: Không, Sariputra, vì Phật thì vượt trên
sự suy nghĩ và phân biệt. Sự biết vắng lặng vượt trên chỗ dựa khách
quan, được nâng lên hay tiết lộ (biết đến) như là không phải hành
động, cũng không phải suy nghĩ, vì sự thể như vậy không thể xảy ra.
Một hành động chỉ xảy ra khi có một sự hỗ trợ, 1 nguyên nhân và sẽ
không xảy ra nếu không có việc này (ngay cả khi đây là một việc trong
mơ). Kết quả của cái nhìn sai lầm (false view) nâng lên hay tiết lộ sự
giả định thành hiện thực, mặc dù chỉ là một ảo ảnh, một bóng
người cùng ở thế giới thực khách quan cũng như thế giới trong mơ.
Loại suy nghĩ này chỉ khởi lên với 1 sự giả định chưa được kiểm
chứng về 1 chỗ dựa khách quan, và không khởi lên nếu không có chỗ
dựa này. Vì những hành động “thông minh” chỉ có thể xem thấy (refer
to) pháp như là được nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy, hay biết đến,
vì suy nghĩ không kỹ càng nên tất cả kết quả đều không chính xác,
và được giả định là sự thật và đúng, và được phát ra (projected
out) trong vô số thể giới là như vậy
Sự thể đang được diễn ra (đối thoại này) chính
là không dựa vào chỗ dựa khách quan…liên quan đến một số vật, những
hành động thông minh đưa vào, nhận lấy (take on) sự cấu bẩn và chướng
ngại theo tính tự nhiên như nó được thấy, nhưng đối với người khác thì
nó đưa cho sự thanh tịnh nhờ tiết lộ rằng không có sự khách quan
(non-objective), sự chiêm niệm không sinh ra như là (as) sự biết thuần
khiết vượt trên bất kỳ cơ sở nào. Những hành động của thân và ý
chỉ khởi lên nếu có chỗ dựa khách quan, không thể không có. Sự thể
như vậy tiết lộ chính nó, về chính nó, và vì thế không thêm vào hay
lấy đi bất kỳ pháp nào. Nghiệp của ông, Sariputra, cũng chỉ tiết lộ
bản tính thật của nó.
.Sariputra: Như Phật nói sự hỗ trợ khách quan
là tách biệt, vậy làm sao mà một hành động chủ đích chỉ có thể
khởi nếu có chỗ dựa khách quan, và không thể không có?
Subhuti: Một hành động có chủ đích chỉ được
khởi lên với 1 chỗ dựa khách quan, và không thể không phải, theo nghĩa
mà người này xem một chỗ dựa khách quan vốn không tồn tại như là 1
dấu hiệu, một chỗ dựa khách quan. Thật sự thì ngay cả hành động
của ý thức thì cũng tách biệt, và dấu hiệu cũng vậy. Và sự tạo
nghiệp cũng vậy, vốn được thành lập bởi vô minh, và những liên kết
(links) của sự đồng sinh có điều kiện, cho đến sự mục nát và cái
chết được gây ra bởi sự sinh, và ngược lại. Ngay cả khi như vậy thì
chỗ dựa khách quan cũng là tách biệt (isolated). Hành động của ý
muốn thì cũng tách biệt khỏi dấu hiệu (có vẻ như là nguyên nhân của
nó), và chỉ khởi lên khi ta tham khảo, nhắc đến những sự diễn đạt,
biểu hiện thông thường trong thế giới.
Sariputra: Nếu người này nằm mơ thấy mình bố
thí, và hồi hướng Bodhi, vậy món quà này có được gọi là bố thí
không?
Subhuti: Chúng ta đang đối diện với Ngài Maitrya
Bồ Tát, Phật đã thọ ký cho ông ta Bodhi. Ông ta là người chứng kiến
tận mắt việc này, nay ta sẽ hỏi ông ấy
Sariputra: Maitreya, Subhuti đã nói “Ngài Maitreya
Bồ Tát có thể giải quyết việc này”. Mong ông hãy giải thích, Ajita!
Maitreya: Không nhắc đến những gì mà Ngài
Subhuti nói, vậy cái gì phù hợp với từ “Maitreya” và “giải quyết
được vấn đề này”? Vậy hình tướng của tôi trả lời ông chăng? Hay là
cảm xúc, nhìn nhận, sự thúc đẩy, hay ý thức? Vậy cơ thể bên ngoài
của tôi trả lời, hay là hình thù của tôi trả lời chăng? Hay sự vắng
lặng của hình tướng, của cảm xúc, nhìn nhận, sự thúc đẩy, hay ý
thức? Hẳn nhiên là sự vắng lặng của hình tướng vv không thể trả
lời. Tôi cũng không thấy có pháp nào trả lời, hay có pháp nào được
thọ ký Bodhi
Sariputra: Maitreya, ông thực sự xem thấy pháp mà
ông nói là như vầy ư?
Maitreya: Tôi không thấy vậy. Tôi cũng không biết
và cũng không thể biết những pháp này, không thể nắm bắt, nhìn thấy
theo cách mà những từ này diễn tả, mà những suy nghĩ này nhìn
nhận. Nhưng dĩ nhiên là cơ thể không thể chạm vào chúng (pháp?), ngôn
từ không thể diễn tả, tâm không thể suy xét. Chúng chỉ ra tự thể của
tất cả các pháp, nhưng ngay cả những thứ này cũng không có tự thể.
Sariputra nghĩ: Bồ Tát Di Lặc thật là thông
thái. Ông ta đã diễn giải trí tuệ hoàn hảo mà ông ta đã rèn luyện
trong một thời gian dài!
Phật: Tại sao ông lại nghĩ đến việc này?
Sariputra, ông có thể thấy được pháp này có những gì để mà khiến
ông trở thành A la hán chăng?
Sarriputra: Không thưa Ngài
Phật: Cũng như vậy, Bồ Tát đi trên trí tuệ
hoàn hảo thì không nghĩ như vầy, “pháp này chắc chắn sẽ đạt được
Bodhi, pháp kia được, pháp này đang được, pháp kia sẽ được”.
Khi người này nghĩ như vầy tức là đang đi trên
trí tuệ hoàn hảo
5 chỗ gây nên lo sợ
Khi đi như vậy thì không có sợ sệt. Khi được
trang bị với sức mạnh này, người như vậy sẽ cố gắng ở bất kỳ lãnh
vực nào để mà nghĩ rằng: Đây không phải là điều kiện mà không tiết
lộ Bodhi” (such as not to reveal enlightenment)
Khi người này nghĩ như vầy tức là đang đi trên
trí tuệ hoàn hảo. Bồ Tát như vậy không sợ sệt kh vào rừng rậm đầy
thú dữ. Người này phơi bày ra danh dự của mình để từ bỏ tất cả vì
lợi ích mọi người. Suy nghĩ như vầy: “Chính vì những con thú này sẽ
ăn nuốt lấy thân xác này, thân này phải được hiến dâng tùy ý. Bố
thí ba la mật như vậy trở thành sự quên mình hoàn hảo và hướng
nhiều đến Bodhi hơn. Khi đã nhận thức được sự sáng, trong (luminous)
hoàn hảo, người này làm nhiều việc trong quốc độ Phật để thấy được
không có thú vật, vì chúng không được xem như là “thú vật”, và không
ai có suy nghĩ như vậy, nhưng đơn giản là chúng sinh sống bằng thức ăn
của trực giác
Cũng như vậy, Bồ Tát không sợ hãi khi đi vào
rừng đầy kẻ cướp. Vì Bồ Tát cảm thấy thích thú khi rèn luyện trong
sự từ bỏ tất cả mọi thứ như là của cải hay bất cứ thứ gì, Bồ
Tát thì không gắn kết với ngay cả tính mạng của mình, vì đã hào
phóng từ bỏ tất cả những gì cần thiết cho cuộc sống. Nghĩ về sự
nguy hiểm như vầy: “Vì những người này cần tất cả những gì cho cuộc
sống, chính vì vậy đây phải là món quà của cuộc sống. Vì có người
cần cuộc sống này, ta không cảm thấy bất mãn, giận dữ vì lý do
này. Ta không chống cự những hành động gây hấn, dù là bằng thân,
khẩu hay ý. Cuộc sống này là một cơ hội để hoàn thiện Bố thí, kỷ
luật, nhẫn nhục ba la mật tới sự hoàn hảo sáng sủa hơn, và xóa bỏ
tất cả những chướng ngại tới sự hoàn hảo vĩ đại. Như là sự thật
của sự hoàn hảo vĩ đại, hành xử như vậy trong cõi Phật này…rừng
rậm đầy kẻ cướp thì ta không nghĩ là nó như vậy, không thể như vậy.
Sự kiên trì và tập trung để nhận biết được sự thuần khiết hoàn hảo
ở bất cứ cõi Phật nào lớn đến mức không thấy có sự việc hay những
điều sai trái nào, cũng không nghĩ là như vậy
Cũng như vậy, ở nơi khô cằn, Bồ Tát cũng không
sợ hãi. Người này không bị hoảng sợ hay kinh động. Sự rèn luyện của
người này đi đến kết quả là thỏa mãn cái khát cho mọi người. Người
này không nghĩ rằng “nếu ai chết trong cơn khát thì sẽ sinh làm ngạ
quỷ”. Mặc khác, người này hướng suy nghĩ đại bi tới tất cả, và
nghĩ rằng: “Hẳn là những người này có nhiều mong cầu, thiếu thốn
nhiều, thế nên sa mạc mới được nghĩ là như vậy (khốn khổ). Chính
nhờ sự thật của trí tuệ hoàn hảo mà người này ở cõi Phật không
thấy có sa mạc nào xuất hiện, hay ngay cả được nghĩ đến, vì chúng
đơn giản là không cần đến. Người này tỏa rặ thể như vậy cho tất cả
như là chắc chắn họ sẽ được uống nước tuyệt hảo nhất. Chính vì
vậy họ cố gắng thay cho mọi người, để ở bất cứ và tất cả tình
huống thì sự hoàn hảo của nỗ lực tinh tấn càng được hoàn thiện
hơn. Thế nên ngay cả ở nơi không có thức ăn thì Bồ Tát cũng không sợ
hãi
Người này tự bảo vệ bằng suy nghĩ này: Khi tinh
tấn như vầy thì cõi Phật được thanh tịnh, khiến cho tiến đến Bodhi,
ở cõi Phật này không có nơi không có thức ăn…những việc như vậy ta
không hề nghĩ tới. Chúng sinh ở cõi này thì hoàn toàn yên vui, tràn
đầy yên vui và có đầy đủ an vui. Và vì vậy mọi ý định và dự định
của những người này được nhận thức như là sự thật. Cũng giống như
chư thiên cõi 33 (Đao Lợi?), khi nghĩ đến việc gì thì tự nhiên hiện ra
bất cứ thứ gì họ muốn, vì vậy cần tinh tấn để mọi người có thể
chỉ dùng ý nghĩ mà nhận thấy và sản sinh ra bất cứ thứ gì họ
muốn. Để mà ý muốn hợp pháp của họ được hoàn thành, để mọi người
ở bất cứ nơi đâu cũng không thiếu những vật dụng cho cuộc sống, vì
vậy ta tinh tấn để có được sự suy nghĩ thuần khiết, cho lợi ích của
bất cứ và tất cả mọi người, và cũng nhờ đây mà sự hoàn hảo của
tập trung (concentration) được trở nên hoàn thiện hơn. Vì Bồ Tát như
vậy không sợ sệt ở những khu vực có dịch bệnh, họ nghĩ rằng không
có pháp nào có thể bị cản trở bởi bệnh tật, và không có “bệnh
tật” nào được gọi là “pháp”.
Theo cách này, hãy suy tư về tính vắng lặng và
đừng sợ hãi. Đừng nghĩ rằng, phải mất một thời gian rất dài để
đạt đến Bodhi, đừng run sợ trước suy nghĩ này. Chính khoảng thời gian
suy nghĩ này thì là cực điểm của giới hạn, không có sự khởi đầu;
nói cách khác, nó không có cực điểm nào. Bồ Tát như vậy không nghĩ
tới khó khăn vì họ nghĩ “giới hạn (limit) này thì dài và lớn, không
có điểm khởi đầu như là một khoảnh khắc suy nghĩ, nói cách khác,
không vắng mặt, không giới hạn”. Những việc này ngăn không choh Bồ Tát
run sợ trước ý nghĩ “sẽ còn lâu lắm mới đạt đến Bohdi”. Và Subhuti,
cũng như vậy, khi việc làm người này hay người khác lo sợ, thấy,
nghe, cảm thấy hay biết như vậy, thì cũng không làm Bồ Tát lo sợ, ta
biết người này có khả năng đạt được Bodhi. Bồ tát mặc áo giáp của
suy nghĩ sau: “Hành động như vậy, nỗ lực siêng năng như vậy để tất cả
mọi người ở cõi Phật này không bệnh, không biết bệnh là gì. Theo
cách này mà Phật đã chỉ dạy, và áp dụng như vậy để biết được trí
tuệ hoàn hảo, vì lợi ích cho mọi người, để trí tuệ hoàn hảo được
hoàn thành.
Thọ ký nữ thần sông Hằng
Lúc này, một người phụ nữ đến tới đại hội,
và ngồi xuống. Người này đứng dậy, vắt vai áo sang bên phải, chắp
tay chào Phật và nói: “Thưa Ngài, như con được trụ tại vị trí này,
con không sợ sệt. Con sẽ diễn nói pháp cho tất cả mọi người, cũng
không sợ sệt
Lúc này Phật nở nụ cười vàng. Ánh sáng bao
phủ vô tận và vô biên thế giới hệ, chiếu đến thế giới Brahma và trở
về, bay quanh Phật 3 vòng rồi nhập vào đỉnh đầu của Phật. Khi thấy
nụ cười này, cô ta dùng hoa vàng ròng tung rải lên Phật. Những bông
hoa này không cố định ở đâu mà trụ lơ lửng tại không gian.
Anan: Thưa Phật, vì lý do gì mà Ngài cười?
Không phải không có lý do mà Phật lại cười.
Phật: Nữ thần sông Hằng này, Anan, tương lai sẽ
trở thành Phật, hiệu là Kim Hoa, Ứng Cúng, Chánh Biến tri, Chánh
Đẳng Chánh Giác, Thầy của trời người, là Phật, Thế Tôn. Trong kiếp
như sao (starlike) người này sẽ xuất hiện ở thế giới và đạt được
Bodhi. Khi người này lâm chung thì sẽ bỏ thân nữ, chuyển thân nam.
Người này sẽ sinh ở Quốc độ Abhitati, chỗ của Phật Akshobhya, tại đây
người này sẽ sống cuộc đời đạo hạnh. Sau khi lâm chung sẽ sinh từ
cõi Phật này đến cõi Phật khác, không rời các Phật. Người này tiếp
tục sinh từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, luôn luôn tùy ý chọn
nơi mà người này sẽ không xa cách Phật. Một quốc vương thì đi từ cung
điện này đến cung điện khác, nhưng bàn chân không bao giờ chạm đất,
trong suốt cuộc đời của người này, và tới khi lâm chung cũng không đặt
chân xuống đất. Cũng như vậy, nữ thần sông Hằng cũng sẽ sinh từ cõi
Phật này đến cõi Phật khác, và không bao giờ xa cách Phật, cho đến
lúc được Bodhi
Anan nghĩ: Những Bồ Tát ở chung với Phật
Akshobhya chắc chắn đúng là được xem như một hội của Phật
Phật biết được suy nghĩ của Anan và nói: Đúng
như vậy, Anan. Những Bồ Tát hành đạo ở cõi Phật Akshobhya được biết
đến như là đã vươn lên từ bùn, đã tiến đến sự hoàn thành Bodhi. Hơn
thế nữa, Anan, đệ tử của Phật Kim Hoa sẽ nhiều đến nỗi không có sự
đo lường. Mặc khác, họ được biết đến như là không thể tính toán, đo
lường. Hơn nữa, Anan, vào lúc này, thời điểm này thì ở cõi Phật
này không có rừng rậm với những thú dữ, kẻ cướp, nơi khô cằn không
người ở, và không có nơi bị dịch bệnh và nơi không có thức ăn. Tất
cả những việc khó ưa đều không có ở quốc độ Phật này, cũng không
được nghĩ đến nữa là. Sự thực là khi Phật Kim Hoa đạt được Bodhi
thì tất cả những nơi gây sợ hãi sẽ không còn, và không được biết
đến.
Anan: Vậy nữ thần sông Hằng đã gieo trồng thiện
căn nơi Đức Phật nào để có được suy nghĩ đầu tiên của Bodhi, và
chuyể giao thành Bodhi?
Phật: Đây là ở Đức Phật Dipankara. Và cô ta
cũng đã rải kim hoa lên Phật Ngài và cầu xin được thọ ký Bodhi. Cũng
giống như ta rải 5 bông hoa sen lên Ngài Dipankara, và đạt được vô sinh
pháp nhẫn, Ngài Dipankara thọ ký cho ta: “Ông trong tương lai sẽ thành
Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni!” Lúc này, khi nghe được sự thọ ký
này, nữ thần suy nghĩ: “Cũng giống như người này, ta cũng muốn được
thọ ký!”. Lúc này, Anan, trước sự hiện diện của Ngài Dipankara, nữ
thần gieo trông thiện căn đầu tiên của Bodhi và chuyển giao thành Bodhi
Anan: Đúng vậy, như người đã chuẩn bị đầy đủ,
nữ thần sông Hằng đã đạt được những yêu cầu và được thọ ký Bodhi
Phật: Đúng như ông nói, Anan, đúng như ông nói
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét