Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

20-22

Chương XX
Thảo luận về thiện xảo phương tiện
Sự vắng lặng và giới hạn sự thật
Subhuti: Làm sao mà Bồ Tát đi trên trí tuệ hoàn hảo có thể tiết lộ cho chính mình hay cho người khác và vô số chúng sinh biết được sự không giới hạn của tính không vắng lặng, làm sao mà thiền về sự vắng lặng?
Phật: Người này quán các uẩn như là vắng lặng. Tuy vậy, người này suy xét như vậy với sự bất gián đoạn của dòng suy nghĩ, có được từ sự không nhận thức khái niệm của nhận biết (nonconceptual awareness) như vầy: Khi 1 người suy xét về luật chung phổ quát…”5 uẩn đều là vắng lặng”…người này không xem các pháp như là một sự vật, như là sự vật vì có được sự vắng lặng nên nó là một thực thể tách biệt. Và khi người này không, và theo lô gic thì không thể nhận thấy rằng bất cứ bản tính tự nhiên nào là một pháp cụ thể nào đó như là sở hữu một sự thể thật (regard any nature as any dharma being any real thing), 1 người không thể nhận biết được bất kỳ giới hạn hiện thật (như là 1thời điểm mà hiện thật- như ta biết đến- kết thúc, vì sự biết cũng được tiết lộ như là sự không giới hạn, đồng nghĩa với toàn giác, hay tính không). Chính vì vậy, điều này có thể được nhìn từ nhiều góc dộ và gần như được nắm lấy, nhưng ta vẫn không thể biết và không thể miêu tả theo kinh nghiệm qua cách diễn đạt thông thường. Là vì “nơi, địa điểm” mà việc này được biết đến…thì vượt trên suy nghĩ, ngôn từ và khái niệm…”nơi” không có gì tồn tại. Và lúc này thì người này có thể nói chắc chắn và biết rằng “Tôi không biết gì cả!”, và qua đó gia nhập hàng ngũ của thiểu số cực hiếm, những người có thể nói lên điều này theo đúng sự thật và ý nghĩa của nó.
 Subhuti: Theo như Phật nói thì Bồ Tát không nhận thức được tính không, vậy nếu không nhận thức tính không thì làm sao Bồ Tát trụ trên sự thiền định về không?
Phật: Bồ Tát suy nghĩ sự vắng lặng có được bản tính thừa hưởng của sự tự nhiên của 6 ba la mật. Tuy vậy, người này không suy nghĩ là: “Tôi biết, nhận thức được”, hay “tôi nên nhận thức”, người này nghĩ như vầy: “Đây là lúc của sự bối rối (discomfiture), và không phải lúc để nhận biết”. Thế nên, tuy không mất sự tập trung, người này trụ suy nghĩ của mình tại một chỗ dựa khách quan và quyết tâm đạt được trí tuệ hoàn hảo vô tận rõ ràng, và khi quyết tâm như vậy thì người này sẽ không nhận thức được sự vắng lặng (vì đây không phải là 1 mục đích nào đó). Tuy vậy, Bồ Tát không mất đi 37 cứu cánh Bodhi. Người này không chủ tâm diệt các lậu (là nguyên nhân sinh tử), tuy vậy, người này không đạt được/tới sự giới hạn nào (achieves no limitations). Khi Bồ Tát trụ tại sự tập trung này của sự vắng lặng- vốn là 1 trong số các cửa giải thoát- người này cũng trụ tại sự tập trung của không dấu hiệu, nhưng không nhận thức điều không dấu hiệu. Khi có được pháp của căn lành này an trụ, yên ổn rồi, người này nghĩ “đây là lúc nuôi dưỡng chúng sinh, không phải lúc nhận thức”. Khi đã nắm bắt lấy trí tuệ hoàn hảo, người này không nhận thức bất kỳ giới hạn hiện thực nào.
3 so sánh ví dụ
Phật: Subhuti, giả sử có người xuất sắc, đạt nhiều thuộc tính thánh thiện…rất cường tráng (vigorous), địa vị xã hội cao, dễ ưa, dung mạo tốt đẹp, có nhiều đức hạnh, có tất cả đức hạnh, đức hạnh có được từ đỉnh cao của ngôi vị quốc vương, kỷ luật và đạo đức, học vấn, từ bỏ, quên mình. Người này cũng rất công minh, biện tài vô ngại, tổng hợp các khía cạnh rõ ràng (formulate views), có thể chứng tỏ cho những luận điểm của mình; người luôn biết thời điểm thích hợp, địa điểm và trương hợp thích hợp cho mọi thứ. Trong cung tiễn thì người này đã đi xa hết mức có thể, có thể đánh bại nhiều thế tấn công, khéo léo trong nghệ thuật, là trước nhất, nhờ sự thiện xỏa, thành công trong mọi kỹ nghệ. Có trí nhớ tốt, thông minh, sáng suốt, vững vàng, cẩn thận, khéo léo trong mọi luận thuyết, có nhiều bạn bè, lại giàu có, khỏe mạnh, thân thể tay chân to lớn, các căn đầy đủ, phóng khoáng với tất cả, dễ chịu và thân yêu với nhiều người. Tất cả những việc đã bắt tay làm thì đều làm xong. Người này cũng nói có phương pháp, chia sẻ giàu có cho nhiều người, tôn trọng những gì cần tôn trọng, kính ngưỡng những gì cần kính ngưỡng, thờ phụng những gì cần thờ phụng. Người như vậy, Subhuti, có cảm thấy càng lúc càng vui mừng và say mê không?
Subhuti: Đúng vậy, thưa Ngài.
Phật: Bây giờ hãy tưởng tượng tiếp, người xuất sắc này dẫn gia đình trên một chuyến đi, cha, mẹ, con trai, con gái. Vì lý do nào đó, những người này đi vào một rừng rậm rộng lớn. Người vô trí trong số họ cảm thấy sợ hãi, kinh hoảng, tóc dựng đứng. Tuy vậy, người này không sợ sệt, nói với gia đình: Chớ có sợ! Ta sẽ đưa gia đình đến nơi an toàn, ra khỏi cánh rừng đầy ghê sợ này. Ta sẽ phóng thích gia đình! Lúc ấy càng có nhiều thế lực dữ dội và thù địch xuất hiện từ trong rừng, vậy người cao thượng này có bỏ gia đình của mình và đi một mình ra khỏi cánh rừng dữ tợn ấy chăng- người mà không bao giờ chùn bước, đầy đủ sức lực và cứng cỏi, người thông minh, vô cùng từ bi và dịu dàng, can đảm và có nhiều nguồn lực phương pháp (resources)?
Subhuti: Không, thưa Ngài. Người không bỏ gia đình này thì có đầy đủ phương tiện mạnh mẽ, tùy ý dùng, lẫn trong và ngoài. Ở phía người này có thế lực trỗi dậy mạnh ngang bằng với thế lực thù địch, và những sức mạnh này khởi dậy và bảo vệ những người này. Những kẻ thù, đối địch muốn tìm kiếm điểm yếu của người này nhưng không thể tìm thấy. Người này có đủ khả năng đương đầu với tình thế này, và có thể đưa gia đình và chính người đó ra khỏi khu rừng, bình an, vô sự, đưa họ đến thành thị hay làng xóm
Phật: Đúng như vậy, Subhuti, Bồ Tát có đầy đủ thương xót và quan tâm đến lợi ích của mọi loài, trụ tại sự thân thiện, từ bi, niềm vui thông cảm và không thiên vị; có phương tiện thiện xảo và trí tuệ hoàn hảo, có nhiều căn lành và chuyển giao những căn lành này theo đúng sự chấp thuận của Phật. Mặc dù người này nhập thiền và nhận biết được các cửa giải thoát-thiền định về sự vắng lặng, không dấu hiệu, không ước muốn, tuy vậy người này không nhận thấy giới hạn hiện thực nào, người như vậy thì có xu hướng tiến đến địa vị Thanh Văn hay Duyên Giác. Người này có sức mạnh và sự trợ giúp của những người giúp sức rất mạnh, có trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo. Vì người này không bỏ chúng sinh nên người này có thể đạt được Bodhi tối thương, an toàn và không chướng ngại.
Vào thời điểm mà Bồ Tát nghĩ tới mọi người như là mục tiêu của suy nghĩ về sự thân thiện, và với sự thân thiện cao nhất, người này nối liền chính bản thân với người khác, vào lúc này thì người này vượt trên sự phân chia đảng phái và cấu bẩn của Ma, vượt trên cấp độ Thanh Văn, Duyên Giác, và trụ tại thiền (sự tập trung) của sự thân thiện. Tuy người này chưa loại trừ hết các lậu, nhưng vẫn có được sự hoàn thiện của tính vắng lặng, vốn là sự hoàn hảo cao nhất. Khi mà Bồ Tát này trụ tại sự thiền định về tính vắng lặng này- chính là 1 cửa giải thoát, người này không thiền định về sự không dấu hiệu, cũng không nhận thức được thiền định về sự không dấu hiệu. Đây cũng giống như con chim cất cánh lên trời. Nó không rơi xuống đất, cũng không trụ tại đâu làm chỗ dựa. Nó trụ tại không trung, trên không khí, không được hỗ trợ từ đâu và cũng không trụ tại đâu.
Cũng giống như vậy, Bồ tát trụ tại sự vắng lặng, và nhận thức được sự xuyên suốt thẩm thấu của tính vắng lặng. Cũng như vậy người này trụ như là trụ ở sự không dấu hiệu và không ước muốn, và chúng (không dấu hiệu, ước muốn) được biết, tiết lộ cho người này như là sự chính sự hoàn thiện của không dấu hiệu và không ước muốn. Nhưng người này không lắng xuống sự vắng lặng và không dấu hiệu, không ước muốn khi mà Phật-phá của người này chưa hoàn thiện. Cũng giống như người bắn tiễn thiện xảo, khỏe mạnh, được rèn luyện thành thục trong cung tiễn. Người này bắn một mũi tên lên trời, người này tiếp tục tiếp những mũi tên khác để chặn không cho mũi tên đầu rơi xuống đất. Theo tuần tự, bắn tiễn như vậy, người này ngăn mũi tên đầu rớt xuống đất, và mũi tên này trụ trên không trung cho tới khi người này muốn nó rơi xuống đất. Cũng vậy, Bồ Tát đi trên trí tuệ hoàn hảo và giữ phương tiện thiện xảo thì không nhận thức giới hạn hiện thực xa nhất cho tới khi căn lành đã thành thục, thành thục như Bodhi. Chỉ khi nào căn lành thành thục, hoàn toàn thành thục như Bodhi thì mới nhận biết  giới hạn hiện thực xa nhất. Bồ Tát đi trên trí tuệ hoàn hảo, và phát triển những sự khai minh (revelation) như là trí tuệ hoàn hảo, và bây giờ thiền định, suy tư về sự vô tận của bản chất thật của những pháp này, nhưng người này vẫn không nhận định trí tuệ hoàn hảo như là mục tiêu hay là sự chinh phục của họ. Những người như vầy tỏa ra sự khiêm tốn thông thái (tự nhiên thuần khiết)
Cánh cửa giải thoát và nguyện cho chúng sinh
Subhuti: Khi đi trên sự vắng lặng và lại trụ ở đó thì Bồ Tát làm được một việc quả thật rất khó, là người làm việc khó, người này nhập vào thiền định về tính vắng lặng, và tuy vậy vẫn không nhận ra được giới hạn hiện thực nào! Thật là tuyệt vời vô cùng, thưa Ngài!
Phật: Đúng vậy, Subhuti. Vì Bồ Tát không bỏ chúng sinh. Chúng ta đã thề nguyện chỉ rõ quá trình tiến đến giải thoát khỏi cấu bẩn và chướng ngại tới Phật tánh cho chính họ và cho tất cả. Khi tâm của Bồ Tát có ý tưởng không muốn rời bỏ chúng sinh, trái lại, muốn chỉ rõ cho họ biết cách thức giải thoát và quá trình như vậy cho mọi người, hơn nữa, người này khát vọng sự thiền định về tính vắng lặng, sự không dấu hiệu, không ước muốn, vốn là 3 cửa giải thoát…Bồ tát như vậy được biết đến như là người có phương tiện thiện xảo, và không nhận ra bất cứ giới hạn hiện thực ở nửa chừng (midway) trước khi mà Phật-pháp được đầy đủ và hoàn thiện. Chính phương tiện thiện xảo như vậy bảo vệ người này. Tất cả những ý nghĩ  của Bodhi nằm trong sự thật này của Bồ tát- không bỏ mặc chúng sinh. Khi người này có đầy đủ  những suy nghĩ về Bodhi, lại thiện xảo phương tiện thì người này không nhận thức giới hạn hiện thực nửa chừng- từ đây làm dừng lại bất cứ kết quả nào của bất cứ thứ gì. Hơn nữa, vì (khi?) Bồ Tát thực sự suy nghĩ về những trạm dừng vô biên (vô số? –limitless) này, (trạm chính là 3 cửa giải thoát), hay ao ước muốn suy tư như vậy thì trong tâm phát ra ước muốn này: Đã lâu rồi chúng sinh như vầy có khái niệm tồn tại, và nắm bất lấy 1 cơ sở (sinh tử vv, pháp) Để nhận biết sự đi đến Bodhi thì pháp được tiết lộ và chỉ dạy cho những người này để họ từ bỏ những tà kiến sai lầm từ sự trụ tại 1 cơ sở nào đó.
Như là một người được tự do, người này nhập vào thiền định của sự vắng lặng, sự không dấu hiệu, không ước muốn. Bồ Tát tự biểu hiện ra cho mình những phẩm chất tự nhiên vốn có bằng suy nghĩ về Bodhi này và phương tiện thiện xảo thì không tự nhận thức hay hài lòng giữa chừng về những giới hạn hiện thực. Trái lại, người này không rời (mất sự tập trung về) sự thân thiện, từ bị, niềm vui cảm thông và sự công minh. Có được phương tiện thiện xảo, người này phát triển pháp thuần khiết càng lúc càng nhiều. Lòng tin tưởng của người này càng lúc càng nhiều, đạt được siddhis, chỉ dạy cho chính mình và người khác (tay chân) của Bodhi và con đường đi. (Tay chân: chánh niệm, suy tư pháp, tinh tấn, bình thản, say mê, thiền định, tâm bình đẳng (điềm đạm?))
Ngay cả như vậy, Bồ Tát suy nghĩ như vầy…”từ lâu lắm rồi chúng sinh như vầy nhận thấy, nhìn thấy pháp, nắm bắt lấy cơ sở”…và Bồ Tát tiếp tục ước nguyện như trước, thiền định như tính vắng lặng. Cũng vậy, người này suy nghĩ…”vì nhìn thấy dấu hiệu nên những người này đi theo dấu hiệu này đã lâu rồi”…và người này phản ứng (deal) với ước nguyện này, và thiền định về sự không dấu hiệu. Và Bồ Tát lại suy nghĩ: Đã lâu rồi chúng sinh đi chệch hướng vì suy nghĩ, nhìn nhận thường còn, hạnh phúc, tự thể cá nhân, những sự đáng yêu”. Người này lại làm theo cách như pháp được diễn giải để những người này từ bỏ những tư tưởng sai lệch về thường còn, hạnh phúc, tự thể cá nhân (của-tôi), những sự đáng yêu để biết được điều này: “tất cả đều vô thường, không trường tồn, tất cả đều là xấu bẩn, không phải niềm vui, tất cả đều không có tự thể, không phải có cái của riêng mình, tất cả đều đáng ghê tởm, không phải đáng yêu
Khi có được những suy nghĩ này về trí tuệ hoàn hảo thì, với những phương tiện thiện xảo được tả như trên, và ngay lúc này trụ tại trí tuệ hoàn hảo, người này không nhận thức ra giới hạn của hiện thực nửa chừng, trước khi mà Phật-pháp của người này đã hoàn thiện. Người này an trụ như vậy, thiền định về sự không ước muốn, nhưng vẫn không mất đi sự tập trung về sự thân thiện,…có được phương tiện thiện xảo, người này tăng trưởng thêm pháp thuần khiết của người này. Niềm tin, kiên trì, chánh niệm, tập trung, nhận xét (đây là 5 khả năng) thì liên tục khiến sắc bén hơn, chính xác hơn, người này đạt được siddhi, chân tay của Bodhi và con đường. Bồ tát phát tâm như sau:  Từ lâu chúng sinh đã quen với việc nhìn nhận cơ sở, và bây giờ vẫn tiếp tục như vậy. Từ lâu đi trên quan niệm về dấu hiệu, tà kiến, nhìn nhận vật chất vật lý, nhận thức vật không có thật, kiến giải sai lệch (wrong view), và bây giờ vẫn tiếp tục như vậy. Vì vậy có lẽ hy vọng là những sai lầm này ở mọi nơi và mọi cách đều ngưng lại, không còn nữa, và những sai lầm này được họ biết là không thể nghĩ bàn (inconceivable).” Khi Bồ Tát giữ trong trí tất cả chúng sinh như vầy, và có được sự nhớ tưởng cho tất cả chúng sinh, với sự sản sinh của suy nghĩ này và phương tiện thiện xảo, khi người này có được trí tuệ hoàn hảo, và có được những giá trị, thuộc tính này, người này bắt đầu suy tư về bản chất thật của các pháp không thể dò được- qua sự vắng lặng, không dấu hiệu, không ước muốn, và qua việc (through these being unaffected) không bị ảnh hưởng, không sản sinh, vô sinh, không có bất cứ dương tính (positivity) nào- Bồ Tát có được những sự nhận thức thuần khiết như vậy thì không thể rớt xuống sự không ảnh hưởng (không quan tâm?) hay là gắn bó thân mật với bất cứ gì thuộc về tam thế giới này. Thật là không thể.
Bất thoái chuyển
Một Bồ Tát muốn đạt được Bodhi liền hỏi Bồ Tát này: Qua pháp nào mà ta có được sự thuần thục về sự nhận biết? Ta suy nghĩ về loại ước nguyện nào, ước nguyện khiến Bồ Tát trụ tại sự nhận biết của sự vắng lặng, hay không dấu hiệu, không ước muốn, không ảnh hưởng, không sinh, không dương tính, và đi thẳng đến sự phát triển của trí tuệ hoàn hảo?” Bồ Tát sẽ trả lời: chỉ hướng theo (attend to) sự vắng lặng, sự không dấu hiệu, không ước muốn, không ảnh hưởng, không sản sinh, vô sinh, không dương tính, tuy nhiên lại không biểu hiện sự sản sinh ý nghĩ về sự không từ bỏ chúng sinh, hay biểu hiện và chỉ ra phương tiện thiện xảo ở câu trả lời này, thì ta biết Bồ Tát này không phải bất thoái chuyển, chưa được Như Lai thọ ký. Người này không chỉ ra pháp đặc biệt của Bồ Tát bất thoái chuyển, không nhấn mạnh điều này, không biểu hiện điều này, không biết thông suốt điều này, không bao gồm điều này trong câu trả lới của mình, không khuyến khích người khác nhập vào giai đoạn, vốn là giai đoạn thực của Bồ Tát bất thoái chuyển.
Subhuti: Vậy, theo như câu hỏi này thì Bồ Tát nào là bất thoái chuyển?
Phật: Ta biết người này là bất thoái chuyển khi nghe hay chưa nghe trí tuệ hoàn hảo, người này đều trả lời đúng những câu hỏi trên
Subhuti: Quả có nhiều người hướng đến Bodhi, nhưng chỉ có số ít trả lời đúng được những câu hỏi.
Phật: Cũng chỉ có số ít trong những Bồ Tát này được tiên đoán là trụ trong giai đoạn bất thoái chuyển, mà qua đó biết được sự nhận thức này (stage on which this cognition is possible). Nhưng người được tiên đoán thì sẽ trả lời đúng. Ta biết rằng người này đã gieo trồng nhiều căn lành tuyệt vời trong quá khứ, và cả thế giới, với Chư thiên, nhân loại và A tu la cũng không thể và không thể hoàn toàn áp đảo người này.
Những giấc mơ và dấu hiệu của bất thoái chuyển
Khi Bồ Tát nằm mơ và thấy “tất cả các pháp đều như giấc mơ” nhưng không nhận ra trải nghiệm này, coi nó như kết thúc,…vậy đây cũng là dấu hiệu bất thoái chuyển của Bồ Tát bất thoái chuyển. Đây là một dấu hiệu nữa…ngay khi mơ thì Thanh Văn hay Duyên Giác, hay bất cứ ai thuộc về 3 thế giới cũng không được thấy hay được biết như là một sự vật được mong muốn (known as an object of longing), hay có vẻ như là có lợi (advantageous). Đây là 1 dấu hiệu nữa…ngay trong mơ, người này thấy mình là Phật- ở giữa đại hội hàng trăm ngàn  na do tha ức triệu người, ngồi ở hội trường tròn với nóc nhọn, chung quanh là hội đồng tăng lữ, được tôn kính bởi chúng Bồ Tát, đang nói pháp
Một dấu hiệu nữa là, khi trong mơ, người này bay lên không trung và diễn pháp cho tất cả mọi người, và nhìn thấy hào quang như xung quanh Phật, người này biến hiện ra tăng chúng đi ra khắp hướng để hoàn thành chức vụ của Phật ở những thế giới hệ khác và diễn thuyết pháp tại đây. Ngay khi nằm mơ, người này có những sự nhìn nhận như vậy
Một điểm nữa là người này nằm mơ và hoàn toàn không sợ sệt khi thấy làng xóm, thành thị, vương quốc bị đánh chiếm, hay thấy ngọn lửa lớn lan tỏa khắp, hay thấy thú hoang và những động vật dữ tợn khác, hay thấy đầu mình sắp bị chặt, hay người này gặp phải những điều hãi hùng khác, hay thấy chúng sinh chịu những điều ghê sợ này. Tuy vậy, người này vẫn không sợ, và sự sợ hãi không khởi lên. Và ngay lập tức, người này tỉnh dậy khỏi cơn mê và nghĩ “Tất cả chúng sinh thuộc về 3 thế giới cũng giống như giấc mơ vậy. Và theo nghĩa này tôi sẽ diễn nói pháp, như là người diễn nói pháp đúng”.
Đây cũng là một dấu hiệu nữa của Bồ Tát bất thoái chuyển khi người này mơ thấy địa ngục và nghĩ: “Vì vậy nên cuộc sống trong cõi Phật không có đau khổ gì cả!”. Đây cũng là một dấu hiệu nữa của Bồ Tát bất thoái chuyển vì người này không bao giờ tái sinh vào những cảnh khổ ấy
Và làm sao mà ta biết được không có đau khổ nào ở cõi Phật của Bồ Tát này? Khi Bồ Tát nhìn thấy trong mơ có chúng sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, khởi lên chánh niệm, và ở cõi Phật thì không có những dau khổ như vậy, đây là dấu hiệu mà người này sẽ không tái sinh vào những cảnh khổ nữa. Hơn nữa, Bồ tát có thể nằm mơ tiên tri thấy thành phố hay ngôi làng hay thành phố bị bốc cháy, và khi tỉnh dậy thì người này nghĩ như vầy: “Những thuộc tính, dấu hiệu trong giấc mơ này chính là dấu hiệu mà Bồ Tát bất thoái chuyển suy nghĩ đến, giữ trong trí. Sự thật này, như sự nói của sự thật này khiến thành phố và ngôi làng này bị cháy, (chính nó đang diễn ra ở đây), được làm dịu lại, mát lại và dập tắt ngọn lửa. (This Truth, as of utterance of this Truth, let this town fire or village fire, which is taking place here, be appeased, cooled, extinguished.). Khi ngọn lửa được dập tắt thì ta biết Bồ Tát được thọ ký bởi Phật trong quá khứ, nếu không tắt thì ta biết người này chưa được thọ ký. Lại nữa, Subhuti, nếu thay vì dịu lại, ngọn lửa này lan rộng, vượt qua khỏi mọi biên giới và lan từ nhà này sang nhà khác, từ đường này sang đường khác thì ta nên biết Bồ Tát này trong quá khứ đã tích lũy nghiệp chối từ pháp, thiếu trí tuệ, hay một khả năng cụ thể nào đó để giữ vững trạng thái tự nhiên (naturalness). Từ việc chối từ và tính dẫn (conductivity) này cho ra kết quả là nghiệp đưa đến trải nghiệm này ở đời hiện tại, đây cũng là nghiệp còn sót lại từ việc chối bỏ pháp. Bởi ta biết rằng hành động kiếp trước của Bồ Tát thì sẽ làm điều kiện cho sự bất thoái chuyển ở kiếp sau này (hay không được bất thoái). Bồ Tát nào có thể kiểm soát được ngọn lửa này thì chính là bất thoái chuyển
Sự bất thoái chuyển và năng lực nhiệm màu của sự chân thực
Bây giờ, Subhuti, ta sẽ nói thêm những thuộc tính, dấu hiệu của Bồ Tát bất thoái chuyển. Hãy lắng nghe kỹ lời ta nói.
Subhuti: Xin Ngài cứ nói
Phật: Nếu có người, đàn ông hay đàn bà, đồng nam hay đồng nữ bị vong nhập, Bồ Tát nếu gặp người này, làm Hành động của Sự thật và nói: “Vì điều này là đúng, theo như các Phật quá khứ, và cũng đúng là những ý định này của tôi cũng hoàn toàn thuần khiết- cho đến mức sự xem xét này cũng hoàn toàn thuần khiết, tới đây tôi từ bỏ những suy nghĩ của Thanh Văn và Duyên Giác. Đây là bản tính tự nhiên của tôi là muốn nhận biết Bodhi. Không phải không muốn biết được Bodhi! Chỉ là biết được Bodhi! Đây không phải là việc mà Phật ở trong vô số thế giới hệ không biết, thấy, cảm thấy và biết hoàn toàn. Những vị Phật biết được ý định chân thành này cũng biết Bodhi. Vì đây là sự thật, vì đây là những lời nói thật, xin người nhập vào thân thể này bằng ma lực hãy đi đi!” Thế nên, nhờ vào những lời nói này của Bồ Tát, nếu vong linh này không rời đi thì ta biết Bồ Tát này chưa được thọ ký, nhưng nếu người này xuất ra thì ta biết Bồ Tát đã được thọ ký
Chương XXI
Những hành động của Ma
Sự tăng thượng mạn và thần lực của sự thật
Bồ Tát này, như ta thấy, nói rằng: “Tôi được Phật quá khứ thọ ký. Vì đây là sự thật, và những điều tôi nói đều là thật, ma, hãy đi đi!”
Khi việc này xảy ra thì Ác ma được xem như là cũng cố gắng khiến vong linh này rời đi. Và sự cố gắng của ma thì thực sự mạnh mẽ khi nó muốn đối phó với Bồ Tát mới bước đi trên thừa. Chính ma lực của Ác ma đã khiến vong linh kia ra đi. Nhưng Bồ tát mới đi trên thừa nghĩ rằng chính là nhờ lực của mình mà vong linh đã ra đi, và không biết hay không nghĩ rằng đó là do ma lực; vì những lực xấu trong tâm trỗi dậy, khiến người này nghĩ tới lợi ich lớn. Bồ Tát trở nên lười biếng
Vì lý do đã chiến thắng được vong linh này, Bồ Tát nghĩ là mình đã được thọ ký trong quá khứ, và coi thường những Bồ Tát khác, chê cười, khen mỉa mai, trách móc và hạ thấp những người này. Sự kiêu ngạo tiếp tục dâng lên, cho đến khi khá chắc chắn và vững vàng. Sự kiêu ngạo, tự tôn, ngạo mạn khiến Bồ Tát này tách xa trí tuệ toàn giác, xa sự biết tối thượng của Phật, xa sự biết của sự tự tồn tại, sự biết của toàn giác, xa khỏi Bodhi vô thượng. Khi người này gặp Bồ Tát thiện tri thức- đạo hạnh nghiêm trang, chú tâm không dao động vào sự cao siêu, miệt mài chân thành, thiện xảo phương tiện, có được pháp bất thoái chuyển- vì kiêu ngạo, người này khinh thường họ, vì người này không hướng đến, yêu thương và kính trọng họ. Chính vì vậy, Bồ Tát mới phát tâm này siết chặt thêm ràng buộc của Ma. Ta biết người này thuộc 2 thừa, Thanh Văn hay Duyên Giác. Theo cách này, liên kết với thần lực của lời nói Thật, Ma được thấy như là tạo ra chướng ngại tới Bodhi của Bồ Tát mới bước đi trên thừa, vốn có ít tín tâm, học ít, thiếu thiện tri thức, không duy trì trí tuệ hoàn hảo, và thiếu phương tiện thiện xảo. Đây cũng là việc Ma làm đối với bất kỳ Bồ Tát nào
Sự kiêu mạn liên quan đến sự công bố của Tên
Lúc này và bây giờ, Subhuti, những hành động của Ma cũng được thấy như là nó hoạt động liên quan đến sự công bố tên của Bồ Tát. Và như thế nào? Ma cũng được biết đến như là dùng sự công bố của tên, và những chi tiết liên quan để dụ Bồ Tát. Hắn đến tới Bồ Tát với đủ thứ diện mạo, và nói rằng: “Ông đã được Phật thọ ký trong những thời gian trong quá khứ. Bằng chứng là cái tên này ông có, ngay khi là Phật, và đây là tên của mẹ, cha, anh, chị bạn, họ hàng bên mẹ, đồng bào và quyến thuộc” . Ma nói lên tên họ của những người này trong 7 đời của người này. Nó nói rằng ông được sinh ở vùng này, quốc gia này, làng này, thành phố này hay khu chợ này. Khi người này có đặc tính tốt nào đó thì Ma cũng nói người này có những đặc tính tốt này trong quá khứ. Bất luận là Bồ Tát không thông minh, hay nhạy bén, Ma nói là người này cũng có những đặc tính này trong các thời khác.
Hoặc, ma sẽ lấy những đặc tính của người này trong đời này, như là người sống trong rừng, khất thực từ nhà này sang nhà khác nhưng không nhận lời mời, hay mặc quần áo làm từ giẻ rách, hay không ăn quá giờ ngọ (giữa trưa), hay ăn trong 1 lúc (in one sitting), hay ngủ ở bất cứ nơi đâu mà người này dừng chân, hay không dùng quá 3 bộ áo, hay sống gần nghĩa địa, hay sống tại gốc cây, hay ngủ trong tư thế ngồi, hay sống giữa thiên nhiên, nơi không có chỗ trú ẩn, hay mặc quần áo làm bằng nỉ (felt), ít ước muốn, dễ hài lòng, sống tách biệt, tiết kiệm, nói lời nhẹ nhàng, ít nói- ở mỗi trường hợp thì Ma đều nói rằng ở quá khứ, người này cũng có những đặc tính như vậy, và chắc chắn là Phật trong 3 thời gian cũng đã thọ ký cho người này được Bodhi và là giai đoạn Bồ Tát bất thoái chuyển, vì lúc này người này có những đặc tính của người tu khắc khe, khổ hạnh, và chắc chắn là trong quá khứ cũng có được những đặc tính này.  
Lúc này có lẽ Bồ Tát cảm thấy tự kiêu khi người này nghĩ đến những tên gọi này và các trường hợp khác ở những thời gian khác, và cũng như sự khổ hạnh của mình. Người này nghĩ chắc là mình đã được thọ ký từ đời quá khứ nên bây giờ mới có những thuộc tính khổ hạnh này. Và ác Ma khẳng định với người này điều này. Dưới diện mạo của tăng, ni, thiện nam, thiện nữ, Brahmin, hay tại gia, cha, mẹ, anh, chị, bạn bè hay quyến thuộc, Ma đến gặp người này và nói cho biết rằng người này trong các thời khác đã được Phật thọ ký và đạt được địa vị Bồ Tát bất thoái chuyển đơn giản là vì người này có những phẩm chất của người tu khổ hạnh, mà theo như Ma nói thì chính là phẩm chất của Bồ Tát bất thoái chuyển. Nhưng, Bồ Tát lại không có những thuộc tính hay dấu hiệu của Bồ Tát bất thoái chuyển như vừa rồi được nhắc tới. Khác với những Bồ Tát khác, người này đã bị Ma dụ. Vì người này không có những thuộc tính, dấu hiệu điển hình của Bồ Tát bất thoái chuyển
Chính vì đã được cho biết là người này được thọ ký trong 3 thời, người này trở nên kiêu căng. Trong sự kiêu căng này, bị đánh gục bởi sự kiêu căng to lớn và chắc chắn này, người này bị ma lực đánh bại, và họ trở nên kiêu căng, khinh mạn anh, chị Bồ Tát, chê cười và hạ thấp họ. Ta biết đây là việc ma làm, hắn mượn tên gọi của các tình huống , nói với Bồ Tát là tên này có từ trong quá khứ
Subhuti, hơn nữa Ma được biết như là hoạt động liên quan đến sự tiên đoán về tên của Bồ Tát sẽ có khi thành Phật. Dưới diện mạo của 1 tăng, người này đến với Bồ Tát và nói rằng: “Đây sẽ là tên của ông khi ông đạt được Bodhi”. Và kỳ lạ thay, Ma sẽ tiên đoán đúng tên mà Bồ Tát đoán (khi suy nghĩ về các tên) sẽ là tên của mình khi đạt được Bodhi. Nếu Bồ Tát này trí tuệ kém, và không có phương tiện thiện xảo thì người này sẽ nghĩ, kỳ lạ thay, tên mà vị tăng kia nói đúng là tên mà tôi đoán sẽ là của tôi.
Bồ Tát so sánh tên mà mình nghĩ ra với tên mà vị tăng kia nói, (tăng chính là Ma, hay bị ma hoặc quyến thuộc của ma sai khiến), thì thấy 2 tên này hợp nhất, và phỏng đoán rằng trong các thời khác người này đã được Phật thọ ký, đặt tên. Nhưng người này không có những dấu hiệu, thuộc tính của Bồ Tát bất thoái chuyển như được nói ở trên. Vì không có những thuộc tính trên nên người này trở nên kiêu mạn vì sự tiên đoán tên này. Trong cơn ngạo mạn, người này khinh thường anh, chị Bồ Tát và nghĩ rằng ta đã được thọ ký, còn những người này thì chưa. Sự kiêu căng, ngạo mạn của người này, làm người này khing thường những Bồ Tát khác, làm cho người này rời xa sự toàn giác và trí biết của Phật. Không trụ tại trí tuệ hoàn hảo, thiếu phương tiện thiện xảo và thiện tri thức, gặp phải ác tri thức. Ta biết người này thuộc 2 thừa là Thanh Văn hay Duyên Giác
Và bây giờ, sau một thời gian dài ngập trong sự hiểu lầm và chìm đắm trong biển sanh tử, người này cuối cùng cũng muốn biết được Bodhi bằng cách học theo chính trí tuệ hoàn hảo này; và nếu người này đi theo thiện tri thức và thường tới gặp những người này, và nếu người này có cái nhìn mới về cuộc sống và trước hết là từ bỏ những ý nghĩ trong quá khứ, ghê tởm, vất đi, đào thải những suy nghĩ như vậy, thấy được lỗi lầm-ngay cả khi như vậy thì người này cũng rất khó để nhận thức được Phật tính. Bởi vì tội kiêu mạn này rất nặng, vì nó là kết quả của việc tự tôn và những tham muốn ảo tưởng muốn có sự hài lòng ngay lập tức
Trong số những tăng thuộc Thanh Văn hay Duyên Giác thừa thì có 4 tội không thể tha thứ, nặng đến nỗi nếu người này phạm vào 1 tội thì người này không còn là tăng, là Shramana, là thiện nam, thiện nữ dòng họ Thích nữa. Nhưng nặng hơn 4 cả tội này là những suy nghĩ tự cao, khi mà người này nghe được tên của mình, liền khinh thường những Bồ Tát khác, và sản sinh ra suy nghĩ rất xấu, lại nặng hơn cả 4 tội không thể tha thứ kia. Không những vậy, nó còn nặng hơn tội ngũ nghịch, chính suy nghĩ gắn liền với sự kiêu mạn này đây, được sản sinh ra khi tên trong tương lai của Bồ Tát được đề cập đến. Suy nghĩ này còn nặng hơn 5 tội ngũ nghịch. Theo cách này, ngay cả sự nói tên của Bồ Tát, vốn là một hành động rât tinh tế, ta cũng biết đó là do Ma làm. Những suy nghĩ này được nhật biết như đúng là sự thực của chúng, và Bồ Tát hay người khác liền tránh né.
Những sai lầm liên quan đến sự ẩn tu
Hơn thế nữa, Ma sẽ đến với bất kỳ Bồ Tát nào và khuyến khích, nói với họ rằng đây là những giá trị của sự sống tách biệt, theo đúng như những gì Phật ca ngợi là tách biệt, và điều này nghĩa rằng người này cần ẩn tu trong rừng sâu, hay hốc núi, nghĩa địa, trên đống rơm, vv. Nhưng đây không phải là những gì Phật dạy là sự sống tách biệt của Bồ Tát, rằng người này phải sống trong rừng, nơi vắng vẻ, tách biệt, hốc núi, nghĩa địa, trên đống rơm, vv
Subhuti: Vậy nếu đây không phải là sự sống tách biệt của Bồ Tát, vậy gì là sống tách biệt?
Phật: Bồ Tát sống tách biệt nghĩa là tách biệt khỏi những suy nghĩ của Thanh Văn và Duyên Giác.
Khi người này có trong tay trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo, và trụ tại sự thân thiện và đại bi đối với tất cả mọi người, người này sống tách biệt ngay khi người này sống trong thành thị hay làng xóm. Đây chính là sự tách biệt khỏi suy nghĩ của Thanh Văn hay Duyên Giác mà Ta dạy: Bồ Tát sống tách biệt nghĩa là ngày cũng như đêm sống trong sự tách biệt này. Khi Bồ Tát trụ tại sự tách biệt này khi đang sống ở nơi vắng vẻ, rừng rậm, hốc núi, người này chính đang sống tách biệt. Nhưng còn sự tách biệt mà Ma nói- sống ở rừng rậm, hốc núi, nghĩa địa- vì sự ẩn tu này bị vấy bẩn bởi suy nghĩ của Thanh Văn hay Duyên Giác, và vì vậy, người này không áp dụng khi thực hành trí tuệ hoàn hảo, và người này không hoàn thành những điều kiện cần thiết để đạt được sự toàn giác. Chính vì lẽ này, người này trụ tại sự cấu bẩn, suy nghĩ tâm thức không hoàn toàn trong sáng. Chính vì lẽ này, người này khinh thường những Bồ Tát sống trong thành thị, mặc dù những người này không bị vấy bẩn bởi những suy nghĩ của Thanh Văn hay Duyên Giác, và những người này cũng trụ tại trí tuệ với nhiều phương tiện, và sống trong sự đại bi
Khi những hành động liên quan đến thân, khẩu, ý của người này không thanh tịnh thì người này sống trong cấu bẩn, không phải là sống tách biệt, mặc dù người này sống trong rừng. Đầu tiên là người này khing thường những người sống trong thành phố hay làng xóm, mặc dù những người này trụ trong trí tuệ, có nhiều phương tiện và đại bi, mặc dù những người này khá thân, khẩu, ý khá thanh tịnh, hay những người này tách biệt với những suy nghĩ liên quan đến Thanh Văn hay Duyên Giác, không bị những suy nghĩ này cấu bẩn; khi người này thấy mình không thể đạt được Thiền định, tập trung, kỹ năng, giải thoát và siêu trí tuệ, và những phẩm chất này người này không có được. Lý do là vì người này không có phương tiện thiện xảo.
Mặc dù Bồ Tát này có sống trong rừng rậm rộng 100 dặm, không có gì ngoài thú săn mồi, nai, chim, các thú hoang nhỏ khác cũng không có, cũng không có Dược Xoa và La sát, không có kẻ cướp, và mặc dù người này có sống ở đây trong 1 năm, hay 100 năm, hay trăm ngàn na do tha ức triệu năm, hay hơn nữa; nếu người này không hiểu nghĩa của sự tách biệt như đã được giải thích như trên và rằng qua sự tách biệt và giải thích như trên mà Bồ Tát chân chính có ý định chân thành muốn trụ tại sự tách biệt trong suy nghĩ, và đã đạt được ý muốn chân thành này; ngay khi vậy, người ẩn tu không thể làm vui tâm của tâm (gladden the heart of hearts), vì người này không biết được điều này, vì thiếu phương tiện thiện xảo, và vì người này dựa vào sự ẩn tu này, bám víu, hướng về việc này và vui thích (indulge) trong việc này. Vì sự tách biệt của bất cứ Bồ Tát nào như được giải thích ở trên thì người ẩn tu này không có. Nhưng ở trên không trung thì ta biết Ma nói với người ẩn tu này là người này làm khéo lắm, và chính sự tách biệt này là điều mà Phật đã nói, và người này hãy cứ tiếp tục như vậy đi, và chính nhờ vậy mà chóng đến được Bodhi
Khi người này rời khỏi nơi vắng vẻ này, người này sẽ trở lại thành thị và khinh dễ những Bồ Tát ở đây, những tăng có hành vi tốt, mộc mạc, tính cách dễ ưa, không bị vấy bẩn bởi suy nghĩ của Thanh Văn, Duyên Giác, và sống thanh tịnh trong thân, khẩu, ý. Người này nói rằng họ chưa sống tách biệt, trái lại là đang sống cuộc sống cấu bẩn và nhộn nhịp. Những Bồ Tát sống tách biệt như vậy thì người này nói là đang sống trong cấu bẩn và sự nhộn nhịp, cố gắng thuyết phục những người này sống tách biệt.
Người như vầy cũng tự cho là mình xứng đáng, và đòi hỏi sự kính trọng của người khác về việc ẩn tu của mình...người này kiêu ngạo và nói như thế này: “Người vô hình siêu nhiên đã đến nói với tôi, đã khuyên bảo tôi! Chính sự ẩn tu trong rừng là nơi mà ta cần đến ở. Có ai sống ở trong làng xóm mà được người siêu việt khuyến khích chưa?” Theo cách này, người này khinh những người thuộc Bồ Tát thừa. Người như vậy ta biết chính là Candala của Bồ Tát, là kẻ sỉ nhục Bồ Tát, là kẻ giả làm Bồ Tát, là Bồ Tát giả, là những sự dơ bẩn đối với Bồ Tát, là kẻ cướp trong diện mạo Bồ Tát, là kẻ cướp của người thuộc Bồ Tát thừa, kẻ cướp của thế giới với các chư thiên. Những người như vậy thì chắc chắn không được săn sóc, tôn trọng hay yêu mến. Bởi vì người như vậy đã rơi vào sự kiêu mạn
Những kẻ như vậy làm hủy hoại những đồng thân bằng hữu của mình, những người vốn mới bước đi trên thừa. Những người bản tính vẫn còn nhiều chướng nạn, không có khả năng để cho thầy biết được sự hiệu quả của người như vậy, không biết phân biệt đâu là thánh thiện
Mặc dù Bồ Tát không tiếp những người như vậy nhưng Bồ Tát không thể không yêu thương và kính trọng họ, bởi vì Bồ Tát chân thực là người không bỏ chúng sinh, sự toàn giác hay Bodhi, vì Bồ Tát này muốn chân thành nhận biết Bodhi, và chỉ cho vô số chúng sinh cách để biết được Bodhi cho chính họ và hạnh phúc của mọi người
Mặc khác, nếu có người đã vươn lên tầm cao như vầy để mà nghĩ đến hạnh phúc của mọi người thì người này cũng thấy biết những hành động Ma làm, người này luôn gắng sức chỉ rõ con đường cho những người còn chưa biết, một tâm không lo sợ và không chìm đắm trong tam đồ (triple world). Người này biết trước tiên hết là sự thân thiện, lòng từ bi, người này biết được đại bi và có lòng thông cảm, người này có suy nghĩ đến sự vui mừng và cảm thông với những người đã tinh tấn đi trên đạo, mặc dù là việc này có hiển nhiên (dễ thấy) hay không, và người này cũng không thiên vị, vì bản tính thật của pháp là không thể nắm bắt được. Khi giữ những điều này trong trí thì người này có được sự kiên định: Vì vậy trong mọi thời gian, những sai lầm được xem như là hành động của Ma thì thực không thể được nghĩ đến, hay sinh ra, hay có vẻ như được sinh ra, tất cả chúng cũng đều mất đi ngay tức khắc. Vì vậy phải rèn luyện như vậy!”
Đây cũng được biết đến như là sự tinh tấn can đảm của Bồ Tát để đến được sự biết cao hơn. Người này biết nhiều như vậy về việc Ma làm liên quan đến phẩm chất của sự tách biệt
Chương XXII
Thiện tri thức
Những người bạn tốt
Những Bồ Tát có ý định chân thành từ lúc ban đầu, mới xuất phát thì yêu quý, hướng đến và tôn kính thiện tri thức
Subhuti: Vậy ai là thiện tri thức của Bồ Tát?
Phật: Chính là Như Lai, cùng với Bồ Tát bất thoái chuyển thiện xảo trong đường đi Bồ tát, và những người này giáo huấn họ trong các ba la mật, diễn nói và giải thích trí tuệ hoàn hảo. Đặc biệt chính trí tuệ hoàn hảo là thiện tri thức của Bồ Tát. 6 ba la mật chính là thiện tri thức của Bồ Tát. Đây là thầy, là đạo, ánh sáng, ngọn đuốc, chỗ trú, nơi nương tựa, chỗ nghỉ chân, cứu cánh cuối cùng, ốc đảo, mẹ, cha, và chính những điều này dẫn dắt người này đến sự biết cao siêu về nhận thức không phân biệt (undifferentiated awareness), và sự biết vốn có thuần khiết, tiến đến sự hiểu và Bodhi. Vì chính trong những ba la mật này mà trí tuệ hoàn hảo được toàn diện hoàn thành
Chỉ đơn thuần từ 6 ba la mật mà từ đây có được sự toàn giác của Phật-mà trong khoảng thời gian hoàn toàn xa rời thời gian như là 3 thế giới biết đến, từ đây tiến đến Bodhi và Nirvana...và cũng là sự toàn giác của Phật vốn trong khoản thời gian của 3 thời gian này đồng thời biết được Bodhi, và chính các Phật ngay vừa rồi (just now) đã trụ trong vô số, vô lượng, vô tận các thế giới hệ không thể nghĩ bàn.
Subhuti, ta cũng là Phật trong thời gia hiện tại đang diễn nói Bodhi, và cũng nói luôn về sự toàn giác có được từ 6 ba la mật này. Vì 6 ba la mật này chứa đựng 37 pháp làm cánh đến Bodhi, chúng bao gồm 4 sự trụ ở Brahma (Brahma-dwelling), 4 phương tiện chyển đổi, và bất cứ Phật pháp nào, bất cứ sự biết nào của Phật, sự biết về sự tự tồn tại, bất cứ sự biết không thể nghĩ bàn, không thể so sánh, không thể đo lường, không thể tính toán, vô thượng, bất cứ sự biết nào ngang bằng với điều không thể ngang bằng, bất cứ sự biết nào của toàn giác
Vậy, Subhuti, chính 6 ba la mật này của Bồ Tát được biết như là thiện tri thức của Bồ Tát. Đây là thầy của người này, vv (là đạo, ánh sáng, ngọn đuốc, chỗ trú, nơi nương tựa, chỗ nghỉ chân, cứu cánh cuối cùng, ốc đảo, mẹ, cha), những sự này dẫn dắt người này đến sự biết, hiểu, Bodhi. Hơn thế nữa, Bồ Tát rèn luyện trong 6 ba la mật cũng là người lợi ích chân thật cho tất cả chúng sinh nào cần đến. Nhưng trước khi muốn luyện tập trong 6 ba la mật này thì trước hết phải nghe trí tuệ hoàn hảo này, giữ trong trí, tụng, học, lưu truyền, diễn nói, giải thích viết chép về trí tuệ hoàn hảo, và suy xét nghĩa lý thâm sâu, nội dung cũng như cách, thiền về điều này, và cũng đặt câu hỏi. Vì chính trí tuệ hoàn hảo này dẫn dắt 6 ba la mật này, chỉ dẫn, dẫn đường, giáo huấn và khuyên răn, đây là điểm chung (genetrix) và là y sĩ. Bởi vì nếu 6 ba la mật này không có trí tuệ hoàn hảo, thì 5 sự hoàn hảo đầu tiên không nằm trong khái niệm của sự hoàn hảo, và chúng không được gọi là ba la mật. Khi Bồ Tát rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo này thì người này nhận thức ra một trạng thái mà không ai có thể lay chuyển được, và trụ một cách chắc chắn, tự nhiên ở đây.
Sự vắng lặng, cấu bẩn và sự thanh tịnh
Subhuti: Vậy dấu hiệu của trí tuệ hoàn hảo là gì?
Phật: Đặc điểm của nó là không có ràng buộc (non-attachment)
Subhuti: Vậy ta có thể nói đặc điểm không ràng buộc này vốn tồn tại về phần trí tuệ hoàn hảo, thì cũng có mặt về phần pháp?
Phật: Đúng vậy, Subhuti, vì tất cả các pháp thì vắng lặng và tách biệt. Chính đặc điểm không ràng buộc, gắn kết này, vốn chính nó chỉ ra trí tuệ hoàn hảo như là vắng lặng và tách biệt, cũng chỉ ra rằng tất cả các pháp thì cũng vắng lặng và tách biệt
Subhuti: Vậy nếu tât cả các pháp đều tách biệt và vắng lăng thì làm sao có thể nghĩ đến được (conceive) sự cấu bẩn và thanh tịnh? Vì những gì bị tách biệt thì không thể bị làm bẩn và được thanh tịnh, những gì vắng lặng thì không thể bị làm bẩn hay được làm cho thanh tịnh, và những gì vắng lặng và tách biệt thì không thể biết Bodhi. Và cũng không có người nào tiến đến được (get at) bất kỳ pháp nào nằm ngoài sự vắng lặng mà (which) không biết được Bodhi, sẽ biết hay không biết. Làm sao mà chúng con hiểu được ý nghĩa của lời dạy này! Xin Như Lai hãy chỉ dạy, thưa Thiện Thệ, hãy chỉ dạy.
Phật: Ông nghĩ sao, Subhuti, chúng sinh có phải đã đi theo tư tưởng “tôi và của tôi” nhiều chăng?
Subhuti: Đúng vậy, thưa Ngài
Phật: Vậy tư tưởng “tôi và của tôi” này có vắng lặng chăng?
Subhuti: Có thưa Ngài
Phật: Vậy có phải vì tư tưởng này mà chúng sinh chìm ngập trong sinh tử chăng?
Subhuti: Đúng vậy, thưa Ngài
Phật: Chính theo nghĩa này mà sự cấu bẩn của chúng sinh được hiểu. Khi nào họ còn nắm giữ những vật xung quanh mình và trụ tại đây thì họ vẫn còn bị cấu bẩn. Nhưng không có ai ở đây thì bị cấu bẩn cả. Và họ càng không nắm giữ sự vật (take hold of things) và không trụ tại đây thì họ càng xóa bỏ được tư tưởng “tôi và của tôi”. Theo nghĩa này, người này càng tiếp tục tham gia trong sự hình thành nhận biết về sự thanh tịnh (hóa) chúng sinh. Vậy ông thấy đó, Subhuti, càng không nắm giữ sự vật (take hold of things) và không trụ tại đây thì họ càng nhận thức, hay thấy được sự thanh tịnh. Nhưng không có ai ở đây được thanh tịnh cả. Khi Bồ Tát suy tư như vậy thì chính là đi trên trí tuệ hoàn hảo. Chính theo nghĩa này mà chúng ta dần dần biết được rằng...chúng ta là dấu hiệu của sự việc này (it is this which we are but indication of)...trong khi tu tập mỗi ngày chúng ta hình thành nên khái niệm của bất cứ và tất cả sự cấu bẩn, và loại bỏ khái niệm “tôi, của tôi”- và trở thành sự thanh tịnh cho chúng sinh- mặc dù tất cả các pháp đều tách biệt và vắng lặng. Chính vì vậy, ở đây không nói tới sự cấu bẩn để mà vượt lên (sự cấu bẩn này) hay là loại trừ đi, cũng không có sự thanh tịnh để mà tìm kiếm cách rửa đi sự cấu bẩn. Ở đây không có bất cứ thứ gì là “tôi” có...và không có thứ gì là của tôi. Đúng vậy, Subhuti, không gì cả
Subhuti: Điều này thật là tuyệt vời! Bồ Tát rèn luyện như vậy thì đúng là rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo, vì người này không dựa, đi theo hình tướng hay bất cứ uẩn nào. Khi đi như vậy thì Bồ Tát không sợ bị đánh gục bởi chư thiên, nhân loại và A tu la. Khi người này đi như vậy chỉ ra sự rèn luyện của tất cả những người theo Thanh Văn hay Duyên Giác thừa theo đúng nghĩa (của sự rèn luyện) như vậy, và có được 1 chỗ đứng thanh thản tột bực. Vì Phật vị thì vô cùng thanh thản, hỷ xả (equanimous), và quả Như Lai cũng vậy, chính trạng thái tự tồn tại này vượt trên bất cứ sự tự tồn tại, trạng thái toàn giác (biết tất cả) mà ở đấy không có gì là biết (nothing knowledgeable). Bồ Tát ngày đêm dành thời gian suy nghĩ về những hoạt động tâm thức như vậy gắn liền với trí tuệ hoàn hảo thì người này tiến gần tới Bodhi và sẽ nhanh chóng nhận thức được Bodhi
Sự quan tâm đến trí tuệ hoàn hảo, và viên trân châu quý báu
Phật: Đúng như vậy, Subhuti. Subhuti, giả sử toàn bộ chúng sinh trên Jambudvipa này đồng loạt thành thân người, và ngay khi phát tâm Bodhi thì họ trụ tại những suy nghĩ liên quan đến Bodhi trong suốt cuộc đời. Được như vậy, bây giờ họ còn bố thí cho tất cả chúng sinh- vậy Bồ Tát tinh tấn lực như vậy có nhiều công đức chăng?
Subhuti: Quả thật là nhiều, thưa Ngài
Phật: Cũng đúng như vậy, Subhuti, thiện nam hay thiện nữ nào, khi là Bồ Tát, lại trong một ngày suy nghĩ về trí tuệ hoàn hảo, vậy người này có được công đức rất khác. Vì khi người này ngày đêm suy tư như vậy thì người này càng xứng đáng để bố thí vật hy sinh (sacrificial gift) cho bất cứ và tất cả chúng sinh. Thật hiếm có chúng sinh nào có tâm và ý tràn đầy sự thân thiện như người này, dĩ nhiên là ngoại trừ Phật và Như lai. Người này thật tuyệt xuất, không gì giống, tương tự, có được pháp không thể nghĩ tới này. Vậy thiện nam hay thiện nữ này đầu tiên cần phải nghĩ gì để có được những công đức ấy?
Những người như vậy có được 1 cái nhìn thông thái (hoặc, hoàn toàn tự nhiên) khiến cho người này thấy bất cứ và tất cả chúng sinh nào đều như là sắp vào lò mổ. Người này như vậy, lại có tâm đại bi, liền trong mọi trường hợp nắm giữ những người này. Chúng ta quan sát vô số chúng sinh với thiên nhãn, và những điều mà chúng tôi thấy thật quá bất an. Có quá nhiều chúng sinh manh nghiệp bị đọa địa ngục ngay tức khắc. Có người phải tái sinh cảnh không may. Hoặc có người chắc chắn sẽ bị giết chết, hay lạc trong lưới tà kiến, hay không tìm được con đường, những người có kiếp sống may mắn thì nhanh chóng mất đi các kiếp sống may mắn này, và liên tục như vậy
Và người này nghĩ như vầy: “Tôi sẽ làm người cứu vớt cho mọi chúng sinh như thế này, tôi tìm kiếm sự giải thoát cho họ khỏi cảnh khổ!” Nhưng người này không khiến việc này, hay bất kỳ thứ gì khác trở thành một dấu hiệu, người này vốn trung lập, không thiên vị. Đây cũng là ánh sáng của trí tuệ tự nhiên của Bồ Tát, chính cùng với ánh sáng mà người này nhận biết và có được Bodhi. Bồ Tát suy tư và trụ tại những suy nghĩ như vậy thì đáng được thế giới người này ở cúng dường, và không thoái chuyển Bodhi. Những người này thanh tịnh các vật phẩm cúng dường tất cả các loại mà cần thiết cho cuộc sống người này, khi mà suy nghĩ của họ hoàn toàn hướng đến trí tuệ hoàn hảo, vì những người này đã tiến đến gần sự toàn giác
Lúc này Bồ Tát trụ tại những hoạt động tâm thức hỗ trợ cho trí tuệ hoàn hảo, vì người này không dùng của được bố thí phí phạm, vì người này chỉ ra con đường cho tất cả chúng sinh, soi sáng đến vô số nơi, giải phóng khỏi sanh tử bất cứ và tất cả chúng sinh nghe lời người này và chú ý tự rèn luyện một cách đúng đắn, và có khả năng thanh lọc cơ quan và khả năng nhìn nhận , tầm nhìn của chúng sinh
Khi người này trụ tại những suy nghĩ, hoạt động tâm thức hướng đến những mục tiêu này thì người này giữ trong trí và duy trì những suy nghĩ này theo đúng trí tuệ hoàn hảo. Khi người này quyết định nghĩ tới những điều này thì tâm của người này hoạt động vì lợi ích cho bất cứ và tất cả mọi người. Cũng như vậy, người này không nghĩ đến những việc khác, những việc thiếu trí tuệ hoàn hảo. Người này như vậy thì dành ngày và đêm suy tư về những việc liên quan đến trí tuệ hoàn hảo.
Giả sử có người, biết nhiều về châu ngọc và nhiều loại đồ trang sức, bỗng được một viên ngọc rất quý. Điều này khiến người này rất hưng phấn, vui mừng.  Khi người này mất đi viên ngọc quý này thì rất buồn rầu và đau khổ. Người này luôn luôn nghĩ  đến và nhớ đến viên ngọc quý này, và người này hối hận đã để mất nó. Người này không quên nó, cho tới khi gặp lại được viên ngọc này, hay một viên khác cùng loại và giá trị. Cũng giống như vậy, khi Bồ Tát mất đi viên ngọc quý trí tuệ hoàn hảo này; có được cái nhìn rõ ràng về sự quý báu của trí tuệ hoàn hảo, và biết chắc rằng mình sẽ không xa cách nó, thực sự là đã để mất trí tuệ hoàn hảo (one does), Bồ Tát không ngừng suy nghĩ về trí tuệ hoàn hảo, và hướng đến trạng thái toàn giác, tìm khắp nơi cho tới khi gặp lại được Kinh này, hay gặp được 1 Kinh tương tự. Từ đầu chí cuối người này không ngừng những suy nghĩ liên qua đến sự nhận biết viên ngọc quý trí tuệ hoàn hảo, và người này không ngừng những suy nghĩ liên qua đến sự nhận biết viên ngọc quý của sự toàn giác.
Subhuti: Nhưng theo Phật nói thì tất cả các pháp và hoạt động tâm thức thì đều không có tự thể, và cũng vắng lặng- vậy làm sao mà Bồ Tát lại thiếu đi những suy nghĩ liên quan đến trí tuệ hoàn hảo, hay với toàn giác?
Phật: Khi tâm của Bồ Tát suy nghĩ rằng tất cả các pháp qua tự tánh của nó thì tách biệt và vắng lặng và chấp nhận là đúng như vậy, thế nên người này không thiếu những suy nghĩ liên quan đến trí tuệ hoàn hảo và sự toàn giác. Vì trí tuệ hoàn hảo thì vắng lặng, nên nó không tăng cũng không giảm
Sự vắng lặng và phát triển tới Bodhi (growth in Enlightenment)
Subhuti: Vậy làm sao mà Bồ Tát nhận thức được Bodhi nếu trí tuệ hoàn hảo không tăng, làm sao nhận thức được hoàn toàn Bodhi?
Phật: Sự thật là Bồ Tát đi theo trí tuệ hoàn hảo thì không tăng cũng không giảm. Chính vì trí tuệ hoàn hảo thì vắng lặng, không tăng cũng không giảm, cũng vậy, Bồ Tát cũng vắng lặng, không tăng không giảm. Sự thật là chính như trí tuệ hoàn hảo thì vắng lặng, không tăng không giảm- Bồ Tát biết đến Bodhi, và vì vậy mà Bodhi được biết đến. Khi Bồ Tát được chỉ dạy, và không sợ hãi, không thoái tâm, đây được biết là Bồ Tát đi trên trí tuệ hoàn hảo.
Subhuti: Vậy bây giờ trí tuệ hoàn hảo có đi trên trí tuệ hoàn hảo không?
Phật: Không, Subhuti
Subhuti: Vậy sự vắng lặng của trí tuệ hoàn hảo có đi trên trí tuệ hoàn hảo không?
Phật: Không, Subhuti
Subhuti: Vậy có ai nắm bắt được ngoài bất cứ sự vắng lặng nào của trí tuệ hoàn hảo, bất kỳ pháp nào đi trên trí tuệ hoàn hảo không?
Phật: Không Subhuti
Subhuti: Vậy sự vắng lặng có đi trên trí tuệ hoàn hảo không?
Phật: Không Subhuti
Subhuti: Vậy có ai nắm bắt được ở sự vắng lặng bất cứ pháp nào đi trên trí tuệ hoàn hảo không?
Phật: Không Subhuti
Subhuti: Vậy sự vắng lặng có đi trên sự vắng lặng không?
Phật: Không Subhuti
Subhuti: Vậy hình tướng, các uẩn có đi trên trí tuệ hoàn hảo không?
Phật: Không Subhuti
Subhuti: Có ai nắm bắt được ngoài các uẩn bất cứ pháp nào mà (pháp này) đi trên trí tuệ hoàn hảo không?
Phật: Không Subhuti
Subhuti: Vậy thưa Ngài, làm sao mà Bồ Tát đi trên trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Vậy ông có thấy, Subhuti, có pháp thực nào đi trên trí tuệ hoàn hảo không?
Subhuti: Không, thưa Ngài
Phật: Ông có thấy trí tuệ hoàn hảo mà Bồ Tát thực hành có phải là thật không?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Vậy ông thấy những pháp mà không cung cấp cơ sở để nắm bắt là thật không? Vậy pháp này có cách nào được sản sinh, hay có thể được sinh, đang được sinh ra, hay đã dừng lại, có thể được dừng lại, hay đang dừng lại?
Subhuti: Không, thưa Ngài
Phật: Chính sự nhìn nhận này giúp Bồ Tát đạt được vô sinh pháp nhẫn. Khi có được điều này, người này chắc chắn sẽ đạt được Bodhi. Người này chắc chắn tiến đến sự tự tin của Phật. Bồ Tát nào rèn luyện, nỗ lực và cố gắng như vậy, tinh tấn theo hướng nàu mà không có được trí biết cao siêu của Phật, trí biết toàn giác, trí biết của Người Lãnh đạo, thì điều này là không có
Subhuti: Vậy bản tính thật tự nhiên của pháp, vốn vô sinh thì có chắc chắn đạt được Bodhi chăng?
Phật: Không, Subhuti
Subhuti: Vậy làm sao mà sự thọ ký của pháp được diễn ra.
Phật: Vậy pháp được thọ ký Bodhi này thì ông có thấy là thật không?
Subhuti: Không thưa Ngài, con không thấy pháp thực nào trong bất cứ thời gian nào được đoán trước là sẽ đạt được Bodhi. Con cũng không thấy pháp thật nào mà được biết đến bởi Bodhi, hay được những người này biết đến, hay bằng cách nào đó những người này biết được Bodhi.  Chính vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều không thể được nắm bắt, thế nên con không nghĩ “pháp này được biết đến bởi Bodhi, hay những người như vầy biết được Bodhi, và nhờ vào pháp này mà người này biết được Bodhi”






  



  


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét