Chương
XXIII
Cái
nhìn của Bồ Tát
Lúc
này, Sakra, Để Thích, đang ngồi ở giữa hội, liền nói: Đúng vậy, trí tuệ
hoàn hảo này rất thâm sâu, khó gặp, khó hiểu
Phật: Đúng vậy, Kausika. Trí tuệ hoàn hảo thì vô tận như
không gian. Vì là tách biệt nên không ai có thể đến gần mà thấy, trí tuệ hoàn hảo
thì vắng lặng và vượt trên suy nghĩ và sự hiểu
Sakra: Những người nghe được trí tuệ hoàn hảo này, tiếp nhận,
lưu truyền, và viết chép thì không phải là có căn lành ít ỏi mà được vậy!
Phật: Đúng như vậy. Hãy tưởng tượng cả Jambudvipa này được đủ
thập thiện, vậy những người này nhờ sức công đức có được nhiều phước chăng?
Sakra: Đúng vậy, thưa Ngài
Phật: Những người nghe, học, lưu truyền và chép trí tuệ hoàn
hảo này thì có phước đức còn nhiều hơn những người kia, như công đức vượt trên
tầm với của sự vĩ đại, và thực sự thì vượt trên cả công đức. Công đức có được từ
đạo hạnh của chúng sinh ở Jambudvipa kia thì không thể so sánh được với căn
lành của người nghe, học, lưu truyền và viết trí tuệ hoàn hảo thâm sâu này
Lúc này, có 1 tăng đến nói với Sakra Đế Thích: Những người
nghe, học, lưu truyền và chép trí tuệ hoàn hảo thâm sâu này thì biết đến, và nhận
biết được thực thể của ông!
Sakra: Đúng vậy, những thiện nam hay thiện nữ dù chỉ phát 1
ý nghĩ về Bodhi thì cũng biết và nhận ra thực thể của tôi. Không cần phải nói đến
người rèn luyện trong “sự thể như thế” (thusness), lại tinh tấn và nỗ lực trong
sự thể như thật; chính vì thế nên trên con đường của họ, những người này nhận
biết được thực thể và biết được thế giới với các chư thiên, nhân loại và A tu
la. Trên con đường họ đi, không những chỉ biết và nhận thức được thực thể của
chư thiên, nhân loại và A tu la mà còn biết được người Dự Lưu, Nhất Lai, Bất
Hoàn, A La hán và Duyên Giác
Những người này cũng nhận biết được thực thể của Bồ Tát vĩ đại
thực hành Bố thí nhưng thiếu mất trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo;
tương tự cũng vậy đối với Bồ Tát có đạo hạnh hoàn toàn thuần khiết, có đạo đức
cao trọng, luôn xem trọng các luật về đạo đức, không sai trái, không tỳ vết, đầy
đủ, hoàn toàn thuần khiết và không gợn bẩn, nhưng lại thiếu mất trí tuệ hoàn hảo
và phương tiện thiện xảo; và tương tự đối với Bồ Tát thực hành nhẫn nhục và
thanh thản bình yên, không có suy nghĩ thù hằn, không nghĩ đến suy nghĩ gì,
cũng không chứa chấp bất cứ suy nghĩ xấu ác nào ngay cả khi bị đem lên giàn
thiêu, nhưng lại thiếu mất trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo; cũng vậy
đối với Bồ Tát tinh tấn, kiên trì cố gắng, không lười biếng, và không chùn bước
trước những hành động người này làm liên quan đến thân, khẩu, ý, nhưng lại thiếu
mất trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo; cũng vậy đối với những Bồ Tát
ham thích thiền định, mạnh mẽ và đầy năng lực thiền định, được thiết lập, trụ tại
thiền định, là bậc thầy của thiền định, nhưng lại thiếu mất trí tuệ hoàn hảo và
phương tiện thiện xảo.
Bởi vì, khi đi trên trí tuệ hoàn hảo khi điều này đang được
nói ra, Bồ Tát nhận thức và biết được những
thực thể của thế giới với thiên chúng, người và A tu la, nhận thức và biết
được những thực thể của bất cứ và tất cả
những ai thuộc Thanh Văn và Duyên Giác thừa, và cả Bồ Tát chưa được thiện xảo
phương tiện. Và những người được nêu lên ở đây thì không thể chiến thắng
(surpass) được người như vầy, vì đây chính là bản tính và sự cân bằng tuyệt đối
có được từ sự hỷ xả hoàn toàn.
Nếu Bồ Tát đi theo trí tuệ hoàn hảo khi điều này đang được
nói, và tuân thủ theo...nhận trách nhiệm để dòng truyền của sự toàn giác không
bị gián đoạn, và không bị xa cách Phật. Con đường của người này, khi người này
tiếp tục đi như vậy, sẽ dần dần đi đến bậc thang Bodhi; người rèn luyện như vầy
giải phóng chúng sinh chìm trong bùn dơ của sự cấu bẩn. Khi rèn luyện như vầy,
người này đang rèn luyện hạnh Bồ Tát, và không phải Thanh Văn hay Duyên Giác
Phần thưởng của trí tuệ hoàn hảo
Lúc này Tứ Đại Thiên Vương đến với Bồ Tát rèn luyện như vầy
theo như trí tuệ hoàn hảo, và họ nói với người này: “Ông hãy rèn luyện Bồ Tát đạo
nhanh lên, thiện nam tử! Hãy rèn nhanh nhẹn lên! Đây là 4 bát khất thực mà ông
nhận được khi ngồi trên bậc thang Bodhi, (với tư cách) là người đã nhận thức được
Bodhi”. Không chỉ có Tứ Đại Thiên Vương đến với Bồ Tát rèn luyện trong trí tuệ
hoàn hảo khi (trí tuệ hoàn hảo) đang được diễn giải, mà Ta cũng đến, đừng nói đến
các chư thiên khác. Các Phật đều đặn, liên tục nghĩ đến người này. Những việc
hãm hại hay xấu ác mà có thể xảy ra với Bồ Tát trụ trong trí tuệ hoàn hảo, ví dụ
như bị người khác tấn công, vv, thì đều được loại trừ, không cho chúng làm hại
Bồ Tát trong bất cứ phương diện nào. Đây cũng là một điều lợi mà Bồ Tát đi trên
trí tuệ hoàn hảo có được ngay trong đời này
Anan lại nghĩ: Vậy lời nói này của Sakra, Đế Thích là do sự
nhìn nhận sâu sắc của ông ta hay là do thần lực của Phật
Sakra, nhờ thần lực của Phật, biết được suy nghĩ này và nói:
Chính nhờ thần lực Phật, Anan, chính nhờ năng lực gia trì mà ta có thể nói được.
Vì ngay bản thân ta thì không có khả năng nói tới bất cứ điều gì liên quan tới
chủ đề Bồ Tát
Phật: Đúng vậy, Anan. Những gì Sakra, Đế Thích nói đều là nhờ
thần lực Phật, nhờ sự gia trì của Phật
Chương XXIV
Kiêu ngạo
Những điều kiện được xem là khiến Bồ Tát dễ bị Ma ảnh hưởng
Khi Bồ Tát rèn luyện và nỗ lực như vầy thì ác Ma ở Tam thiên
đại thiên thế giới được xem như là ở trạng thái bất định, không chắc chắn: “Bồ
Tát này sớm nhận thức được giới hạn hiện thực ở cấp độ Thanh Văn, Duyên Giác
hay là đã biết được Bodhi rồi?” Ngay khi vậy, khi Bồ Tát trụ tại trí tuệ hoàn hảo
này thì mọi người biết chắc là Ma bị trúng mũi phi tiêu của nỗi âu sầu. Khi Bồ
Tát tiếp tục hướng đến trí tuệ hoàn hảo và ra sức phát triển như vầy thì ác Ma
chắc chắn sẽ nghĩ cách để hãm hại người này
Ví dụ, chúng sinh biết Ma sẽ gây ra sợ hãi bằng cách phóng
mưa thiên thạch ở mọi phương, tạo ra cảm giác là cả chân trời đều rực lửa.
Chính vì vậy, chúng sinh tin tưởng chắc chắn rằng ác Ma hy vọng Bồ Tát sẽ kinh
sợ, tóc dựng đứng, hay ngay cả một suy nghĩ hướng về Bodhi hay sự nhân từ hỷ xả
cũng sẽ bị dập tắt. Nhưng ác Ma không thể hại người này. Có người thì Ma được
xem, hay tin chắc như là đã hại được thành công, tuy vậy có người hắn hại không
được, vì sao? Sự sai biệt trong niềm tin tưởng kiên quyết (không thực). Sự lười
biếng nơi hành động và ý định. Sự tự kiêu kém may mắn.
Anan: Vậy Ma có thể được xem như là hãm hại được Bồ Tát nào?
Phật: Ma có thể hãm hại Bồ Tát khi trong lúc trí tuệ hoàn hảo
này đang được giảng dạy, người này không phát sinh suy nghĩ tin tưởng vững chắc
vào bản tính thật sự của các pháp này, toàn giác. Ma được biết như là chắc chắn
thâm nhập vào người này. Vì đây là Sự giả dối trong niềm tin tưởng kiên quyết
Ma cũng có thể hãm hại
Bồ Tát nào trong lúc trí tuệ hoàn hảo này đang được giảng dạy, thì cảm thấy do
dự, cảm thấy rắc rối, và nghĩ, “có lẽ trí tuệ hoàn hảo này là như vậy, cũng có
thể không phải”...hay Bồ Tát thiếu mất thiện tri thức, bị ác tri thức chi phối,
khi trí tuệ hoàn hảo đang được giảng thì người này hoặc không nghe hay không hiểu
về trạm thâm sâu (deep station) của tự nhiên, hay trí tuệ, và quyết định sẽ
không tiếp nhận điều này, không hỏi làm sao mà phát triển được trí tuệ hoàn hảo,
hay Bồ Tát bám víu vào người giữ gìn (uphold) pháp nào đó và, không đúng với bất
cứ pháp nào, nói rằng: “Tôi chỉ dựa vào pháp (người này?) này, và mọi thứ tôi
theo không bỏ tôi (and in all things this one I follow does not abandon me). Ở
đây cũng có nhiều Bồ Tát mà tôi dựa vào, nhưng họ không phù hợp với tôi. Tôi đã
chọn người này như bạn đồng hành của tôi và điều này phù hợp với tôi”.
Hoặc, Bồ Tát có thể, trong lúc trí tuệ hoàn hảo này đang được
giảng dạy thì nói với Bồ Tát khác: “trí tuệ hoàn hảo này thật thâm sâu! Ông
nghe được thì ích gì? Vì ngay cả tôi tự áp dụng theo cách mà Phật đã chỉ ở những
Kinh khác, ngay cả như vậy mà tôi còn không đến được đáy tận cùng của việc này,
cũng không thấy vui thích từ trí tuệ hoàn hảo. Vậy ông nghe hay viết chép làm
gì?”
Theo cách này, người này thể hiện sự vô trí của mình, và có
vẻ như làm mất thiện cảm cho những Bồ Tát khác. Chính vì vậy, Ma sẽ đến với Bồ
Tát này...để hãm hại và tìm cách thâm nhập. Hơn nữa, Anan, Ma sẽ rất vui và
sung sướng. Ma sẽ vui mừng, hoan hỷ, hân hoan và hồi hộp nếu có Bồ Tát trong
lúc mơ hồ thì phỉ báng những Bồ Tát khác, nghĩ là: “tôi trụ tại sự cách biệt
này, còn các ông thì không. Cách của họ không phải là trụ tại sự cách biệt
này.” Và mù quáng, Ma cũng được xem như là vui mừng vì người này cách xa Bodhi.
Mặc khác, trong sự vui mừng tưởng tượng và và niềm vui khoái trá của người để
cho nghĩ như vậy, Ma cũng được xem như là một bậc thầy xuất sắc của bản tính cực
kỳ mong manh của người áp dụng lộn xộn sự tập trung đúng đắn, chánh niệm và sự
nỗ lực.
Hơn thế nữa, khi Bồ tát đặt lên cho mình một tên gọi hay một
phe đảng, hay khi những phẩm chất của khổ hạnh được nhắc đến thì ta cũng biết
đây không phải là lý do thích đáng để mà khinh khi những Bồ Tát khác, mặc dù họ
có cư xử đúng mực và tính cách cũng dễ ưa. Nhưng người này không có chiều sâu của
sự rèn luyện, và không áp dụng những phẩm chất của Bồ Tát bất thoái chuyển, người
hướng đến trí tuệ hoàn hảo, cũng không (áp dụng) những thuộc tính hay dấu hiệu
của họ
Vì những người này không có những dấu hiệu như vậy nên họ khởi
lên sự cấu bẩn, người này đề cao chính mình và những khái niệm, luận thuyết của
mình hơn những người khác, và hạ thấp họ, và nghĩ rằng những người này không
ngang bằng với những pháp như vậy, giống được như người này. Ma sẽ đến với người
không thành thạo và chưa được rèn luyện, và thấy rằng cõi của Ma sẽ không bị bỏ
trống, và đại địa ngục, vương quốc thú vât, thế giới quỷ đói và hội chúng A tu
la sẽ tràn đầy. Và những gì được xem như là Ma, sẽ trở nên càng lúc càng quyết
tâm hơn, và nghĩ như vầy: Với sự khởi đầu này thì bất cứ Bồ Tát nào như vầy
cũng sẽ bị bóp nghẹt bởi danh và lợi. Những người này có tài ăn nói, và tài ăn
nói này sẽ thu hút nhiều người. Và những người này nghe theo lời của họ nói, bắt
chước những gì họ nói và chỉ dẫn, và vì vậy không luyện tập trong Sự thể như thế, không tinh tấn
trong lĩnh vực này, không cố gắng nỗ lực, và vì vậy càng tăng trưởng cấu bẩn và
phiền não
Vậy sự thực là những hành động của thân, khẩu, ý của người
có tâm sại lệch này sẽ khiến người này tái sinh vào những hoàn cảnh không thích
hợp, và không có điều kiện để người này giúp đỡ người khác không nghĩ đến bản
thân, không vừa ý, không dễ chịu. Chính vì thể, cõi Ma vương thì đầy khắp, cũng
như đại địa ngục, vương quốc thú vât, thế giới quỷ đói và hội chúng A tu la sẽ
tràn đầy”. Khi Bồ Tát nghĩ về những sự kiện này, người này biết Ma sẽ rất vui mừng,
phấn khởi. Ma thì không lười biếng (not Mara who is given to sloth), chính sự
vui mừng không nhận biết này (contented unawareness), hoặc là niềm vui tột đỉnh
này
Hơn thế nữa, Anan, khi Bồ Tát cãi vả với những người thuộc
Thanh Văn hay Duyên Giác thừa, gây hấn, chê trách và nghĩ xấu cũng như ghét bỏ
họ, thì ta biết Ma sẽ nghĩ “chắc chắn
thiện nam hay thiện nữ này sẽ rời xa sự toàn giác, và sẽ luôn ở xa như vậy.”
Cũng vậy, Ma cũng sẽ rất vui mừng nếu như người thuộc Bồ Tát thừa lại gây sự với
1 người cũng thuộc Bồ Tát thừa, hắn sẽ nghĩ “cả 2 Bồ Tát này sẽ rời xa sự toàn
giác”. Nhưng nếu 1 Bồ Tát được thọ ký lại cãi nhau với 1 Bồ Tát nữa cũng được
thọ ký như vậy, và lại nghĩ điều ác tới người này- chừng ấy kiếp người này mặc
áo giáp, vì người này có thái độ như vậy- trừ phi người này đả hoàn toàn bỏ mất
sự toàn giác. Tuy vậy, ta biết đây không
phải là Ma mà chính là bản tính, khuynh hướng, thái độ, sự không vừa lòng, nghĩ
là do Ma làm, đã dẫn đến hoàn cảnh không may này, như là hòa quyện (as
dissolved in) và sự hỷ xả và trí tuệ hoàn hảo
Thái độ đúng đắn của Bồ Tát đối với một Bồ Tát
Anan: Vậy có ai có thể thoát khỏi những thái độ này, hay người
này bắt buộc phải mang áo giáp trong suốt thời gian này?
Phật: Anan, pháp được diễn giảng bao gồm cả khả năng giải
thoát- cho người thuộc Thanh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát thừa. Khi một người thuộc
Bồ Tát thừa lại cãi nhau với một người cũng thuộc Bồ Tát thừa- vì người này
không nhận lỗi của mình, chứa giữ một ý nghĩ tiềm tàng về thành kiến thù hằn,
và trụ chắc chắn tại thành kiến này- người này không thu nhận pháp giải thoát,
và sẽ chắc chắn bị buộc phải mặc áo giáp trong một thời gian bất định. Nhưng, đối
với người thú nhận bất cứ và tất cả lỗi lầm, và quyết tâm nhẫn nhịn, kiềm chế
trong 3 thời gian, và nghĩ như vầy: Bản tính này chính là xóa tan đi thành kiến,
hòa giải và làm dịu đi những sự gây gổ, xích mích, cãi vả của mọi người, vậy mà
tôi lại tham dự vào sự cãi vả này! Thật là một tổn thất cho tôi, không phải là
điều lợi ích, khi tối nói lại, phản bác khi người khác nói với tôi điều gì. Vì
tôi đối với bất cứ và tất cả chúng sinh là chiếc cầu bắc qua biển sinh tử, nên
tôi không nói với người khác “ông cũng vậy” (the same to you), hoặc trả lời thô
bạo, khó nghe. Đây không phải là cách mà tôi nói chuyện
Trong lúc cãi vả, gây sự, tôi như là kẻ ngu ngốc vô trí, hay
như con cừu đần độn. Khi tôi nghe có người dùng từ lăng mạ, sỉ nhục tôi, thì
tâm này không chứa giữ ác tâm cho những người này hay người khác. Tôi không được
rèn luyện để mà vạch tìm và nhận thức những lỗi sai được coi là sai bởi chính
tôi hay người khác, hay nghĩ rằng những gì được nói ra hay nghĩ về lỗi sai của
người khác là đáng nghe.
Cũng như vậy, không phải ai tìm xét và nhận biết lỗi cũng được
nghĩ là như vậy. Vì tôi đã có quyết tâm tha thiết như vậy, tôi không làm hại
người khác. Tôi chỉ ra niềm vui và an lạc bằng cách nói và chỉ những việc tạo
ra an vui và hỷ lạc, tôi hướng đến Nirvana, cũng giống như những người này, vậy
mà tôi lại giữ trong mình suy nghĩ xấu! Tôi quyết tâm không suy nghĩ xấu đến những
người gây hấn đối với tôi, và tôi quyết tâm tránh sự giận dữ, và thực sự quyết
tâm bằng cách nỗ lực và tinh tấn theo hướng này.
Ngay cả khi tôi gặp nguy hiểm, tôi vẫn quyết tâm không để
nóng giận, hay nhăn nhó mặt”- đối với những Bồ Tát như vậy thì Ta chỉ ra sự giải
thoát. Đây cũng là thái độ mà Bồ Tát cần có đối với cả những người thuộc Thanh
Văn thừa. Không được giận dữ với bất cứ chúng sinh nào, đây là thái độ cần có đối
với tất cả chúng sinh. Vậy đối với người thuộc Bồ Tát thừa khác thì người này cần
có thái độ gì? Cũng giống như đối với bất cứ Thầy nào khác
Người này nghĩ rằng, “những Bồ Tát này là thầy của tôi. Chắc
chắn là họ cũng đi trên thừa giống tôi, tôi đã thăng tiến cũng bằng con đường
này, họ cũng có ý định giống tôi, cũng đi trên thừa giống tôi. Họ rèn luyện như
vậy, và đây cũng là cách mà tôi rèn luyện. Nhưng nếu có người trong chúng ta trụ
tại sự nhơ bẩn (taint) thì tôi không làm giống như vậy. Vì, họ sống ở nơi không
cấu bẩn, ở những hoạt động của tâm cũng thích hợp cho sự toàn giác, tôi cũng
rèn luyện như họ. Không có trở ngại nào sẽ ngăn cản Bồ Tát rèn luyện như vầy
trong sự toàn giác, và người này chóng được Bodhi
Chương XXV
Rèn luyện
Làm thế nào mà Bồ Tát luyện trong sự toàn giác
Subhuti: Vậy thưa Ngài, Bồ Tát muốn rèn luyện trong sự toàn
giác thì phải rèn luyện như thế nào?
Phật: Bồ Tát rèn luyện trong sự tuyệt diệt, vô sinh, không dừng
tận, không sinh, trong sự vắng dương tính (absence of positivity), sự tách biệt,
không thiên vị, ở không gian, ở nguyên tố của pháp và Nirvana
Subhuti: Vậy những việc này thì có gì liên quan đến sự toàn
giác?
Phật: Subhuti, ông có nghĩ sự thể như vầy, cũng là Phật,
cũng là nguyên nhân chính mà Phật chính là Phật, vậy nó có bị tận diệt không?
Subhuti: Không, thưa Ngài. Vì sự tận diệt không thể trở
thành tận diệt, chính sự tận diệt cũng không thể bị dập tắt
Phật: Sự thể như vậy của Phật chính là bản chất nguyên thủy
của Phật, như (vì?) là Phật, nên nó có được sản sinh, hay dừng lại, hay được
sinh ra; hay nó trở thành hay không còn biến thành, hay nó trở nên tách biệt,
hay thản nhiên vô tư, hay kích động mãnh liệt, hay nó trở nên như không gian,
hay trở thành bản chất của pháp chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài.
Phật: Vậy chính sự thể như vậy có nhập Nirvana chăng?
Subhuti: Không thưa Ngài
Phật: Bây giờ, Subhuti...bất cứ Bồ Tát nào rèn luyện như vầy,
“Sự thể như vậy không và không thể bị diệt tận”...khi người này rèn luyện như vậy
thì người này nhận thức được sự hoàn hảo của tất cả mọi sự rèn luyện. Người này
không thể bị đánh gục bởi những gì được xem như là do Ma làm, hay do quyến thuộc,
đạo quân của Ma
Không lâu sau, người này sẽ nhận thức được sự bất thoái chuyển
vốn được nhận biết bởi người khác. Không lâu sau, người này sẽ ngồi trên bậc
thang Bodhi. Người này đi trong tầm với của người này. (range)
Người này rèn luyện trong pháp mà quá đó được biết đến như
là người giúp đỡ và hướng dẫn tới sự nhận biết, trong sự thân thiện vĩ đại, đại
bi, niềm vui đồng cảm, cũng như sự hỷ xả không thiên vị. Người này rèn luyện
như là chuyển đẩy pháp luân với 3 vòng và 12 mặt (khía cạnh). Người này rèn luyện
như để chỉ ra những sự nhận biết và sự khám phá này cho vô số chúng sinh. Người
này rèn luyện như là để không gián đoạn dòng họ của Như Lai. Người này rèn luyện
như để mở cánh cửa này và chỉ ra như vậy, cũng như tiết lộ nguyên lý bất tử
này. Những người không rèn luyện như vậy thì không thể lãnh nhận được sự rèn
luyện cao siêu này. Người yếu kém thì không thể rèn luyện như vầy
Những người rèn luyện như vậy là sự tinh túy của chúng sinh,
họ chỉ ra sự nhận biết cho bất cứ và tất cả chúng sinh, những người này tinh tấn
và đạt được sự nhận biết cao cả cho tất cả những người này. Bồ Tát rèn luyện
như vậy thì không sanh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, cũng không sanh
nơi biên địa (của người mọi rợ), cũng không phải gia đình người vô gia cư, hay
bẫy chim, thợ săn, đánh cá hay đồ tể, cũng không ở gia đình nghiện những hành
vi thấp kém. Người này không mù, điếc hay chột, không què, gù, không bị teo bàn
tay hay cánh tay, không thọt, tàn tật, hay liệt (stunned), không run, giật, tay
chân người này không teo nhỏ, đều toàn vẹn cả, không bất thường, người như vậy
thì không yếu ớt, cũng không có làn da xấu hay thân hình xấu, những giác phần,
khả năng thì không thấp kém, cũng không bất toàn, trái lại là toàn vẹn mọi
cách, và giọng nói của người này cũng êm ái và có âm điệu
Người như vậy thì không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối,
nói ác, nói nặng, nói không ra lời (cà lăm), hay là người tham lam, cũng không
có ác tâm, không tà kiến, không làm điều phi pháp. Người này không sinh làm trời
trường thọ, không có hành vi đạo đức kém, không theo pháp không thật, không tái
sinh nhờ sự ảnh hưởng tác động của thiền định và sự thành tựu vô sắc. Vì đây
chính là phương tiện thiện xảo, và có được điều này, người này không sinh làm
trời trường thọ. Nhưng phương tiện thiện xảo của Bồ Tát là gì? Đây chính là trí
tuệ hoàn hảo. Và người này áp dụng sự thiện xảo phương tiện này, có được điều
này, người này nhập thiền nhưng không để sự tái sinh của mình bị ảnh hưởng bởi
những thiền định này. Khi người này rèn luyện như vậy, thì Bồ Tát có được sự
thuần khiết hoàn hảo của những năng lực này, của những cơ sở (ground) cho sự tự
tin, của Phật-pháp. Người này đạt được tất cả những điều này.
Subhuti: Như chúng ta đều biết, thưa Ngài, tất cả các pháp
thì bản tính đều thuần khiết. Nhưng, theo như điều này thì pháp nào mà Bồ Tát
có được và đạt đến sự thuần khiết hoàn toàn của những năng lực này, cơ sở của sự
tự tin và những Phật-pháp này
Phật: Ông hỏi hay lắm, Subhuti. Vì tất cả các pháp thì tự
tánh đã là hoàn toàn thuần khiết. Bồ Tát đi trên trí tuệ hoàn hảo thì không
thoái tâm và không sợ sệt mặc dù tất cả các pháp thì bản tính là hoàn toàn thuần
khiết, đây chính là trí tuệ hoàn hảo. Nhưng người vô trí thì không biết hay
không thấy rằng những pháp này là bao gồm như vậy (so constituted), và cũng
không thấy biết được bản tính thật của pháp, ngay cả khi điều này được chỉ ra
cho họ. Bồ Tát cố gắng và tinh tấn thay cho họ, để những ai không biết thì được
biết, những người không thấy thì có thể thấy được. Những người này rèn luyện
như vậy, và ở thế giới này thì Bồ Tát nhận biết được những năng lực này bằng
cách phổ biến chúng cho tất cả vô số người, cơ sở sự tự tin và tất cả Phật-pháp.
Khi rèn luyện như vậy thì Bồ Tát tự nhên biết được tất cả những suy nghĩ và
hành động của tất cả mọi người, của bất cứ hay tất cả mọi người như họ thực sự
là như vậy. Và bây giờ, chúng tôi vượt trên sự biết về suy nghĩ và hành động của
người khác. Chúng tôi đi trên mặt đất, cơ sở mà không có chân nào đặt lên được,
không từ nào có thể diễn tả, không suy nghĩ nào có thể nghĩ được, và không có mắt
nào nhìn thấy được
Sự ít hiếm của Bồ Tát
Ở trên thế giới này thì ít có nơi nào không có sỏi đá, ít có
nơi có thể tìm thấy vàng bạc. Nhiều hơn là những sa mạc muối (saline desert),
sa mạc khô khan, những nơi phủ đầy cỏ, hay gai, vực thẳm. Cũng như vậy, ở thế
giới này có ít Bồ Tát rèn luyện trong sự toàn giác, như rèn luyện tới trí tuệ
hoàn hảo vốn là bản tính hoàn hảo. Những người rèn luyện theo cấp độ, đặc tính
của Thanh Văn hay Duyên Giác thì nhiều hơn nhiều
Hơn thế nữa, Subhuti, ở những thế giới này có rất ít người
làm những việc dẫn đến đạt được quyền lực của chủ thế gian. Những người làm việc
để đạt được quyền lực của chủ tòa thành thì nhiều hơn. Cũng như vậy, ở những thế
giới này có rất ít Bồ Tát đi trên con đường trí tuệ hoàn hảo và/hoặc bản tính
hoàn hảo, và bây giờ thì quyết tâm đạt đến và nhận thức Bodhi. Những người đi
trên Thanh Văn hay Duyên Giác thừa thì nhiều hơn.
Hơn nữa, cũng rất ít người làm những việc mà khiến họ trở
thành Sakra, Đế Thích. Những người làm việc để được sanh chư thiên thì nhiều
hơn. Cũng như vậy, chỉ có số ít người rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo. Những
người rèn luyện theo Thanh Văn hay Duyên Giác thừa thì nhiều hơn.
Cũng vậy, có ít người làm việc để khiến họ trở thành Brahma.
Những người làm việc để được thành tập hội của Brahma thì nhiều hơn. Cũng như vậy, có rất ít người được bất thoái
chuyển Bodhi. Những Bồ Tát thoái chuyển Bodhi thì nhiều hơn nhiều
Cũng vậy, Subhuti, ở thế giới này có ít người hướng đến mục
đích là Bodhi. Càng ít hơn là những người tiến đến sự thể như thế. Ít hơn nữa
là những người cố gắng nỗ lực tiến tới trí tuệ hoàn hảo. Ít hơn nữa là những Bồ
Tát không thoái chuyển Bodhi. Bồ Tát muốn nằm trong số rất hiếm những Bồ Tát bất
thoái chuyển thì rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo, và nỗ lực trong điều này.
Hơn nữa, Subhuti, Bồ Tát rèn luyện trong sự hoàn thiện bản tính như là tuệ giác
này thì không khởi lên ý nghĩ thô khó (harsh), cũng không nghi ngờ, hay ghen tị
hoặc thấp kém, hay suy nghĩ vô đạo đức, hay nghĩ ác, ý nghĩ lười biếng, hay suy
nghĩ mất tập trung, hay suy nghĩ ngu ngốc
Trí tuệ hoàn hảo biết hết tất cả sự hoàn hảo
Chính theo cách này mà Bồ Tát rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo,
tất cả mọi sự hoàn hảo khác đều tự nhiên được sát nhập vào, tiếp nhận được, rèn
luyện theo được và được bao gồm. Quan điểm, sự nhìn nhận của cá nhân bao gồm 62
cách nhìn (views), và ngay như vậy, Bồ Tát rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo thì
tất cả các sự hoàn hảo khác đều được bao hàm trong này. Khi mà khả năng của người
này khi sống còn thì tất cả các khả năng khác cũng được bao gồm. Ngay như vậy,
Bồ tát rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo thì tất cả các pháp lành khác đều được
bao gồm trong này. Khi khả năng sự sống của người này mất thì tất cả các khả
năng khác cũng mất. Ngay khi vậy, Bồ Tát rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo thì tất
cả các pháp không lành (unwholesome dharma) khác đều đình trệ vì chỉ có sự
không nhận biết là bị dừng lại, và tất cả các sự hoàn hảo khác cũng được bao gồm
trong này, và tự động được tiết lộ và thấy rõ.
Công đức từ trí tuệ hoàn hảo
Tại đây và vào lúc này, Subhuti, Bồ Tát ước muốn biết được tất
cả ba la mật thì rèn luyện trong trí tuệ hoàn hảo này. Khi người này rèn luyện
trong trí tuệ hoàn hảo này thì Bồ Tát rèn luyện ở đây vốn là sự hoàn hảo không
thể đo lường như là tất cả mọi người (a Bodhisattva trains in this which is
unfathomable perfection as is any being). Và ở đây có được lời giải của bí ẩn lớn
này. Vì công đức của người này thì khác biệt và không thể dò được. Subhuti, ông
thử nghĩ, tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới có là nhiều
chăng?
Subhuti: Chỉ nói đến mình Jambudvipa thì đã là nhiều rồi,
nói gì đến tam thiên đại thiên?
Phật: Nếu có một Bồ Tát trong suốt cuộc đời của mình cung cấp
cho họ áo mặc, bát khất thực, thảo dược khi dùng lúc bệnh hoạn, và tất cả những
gì đem lại hạnh phúc cho họ- vậy nhờ sức này mà Bồ Tát có được hiều công đức
chăng?
Subhuti: Đúng vậy, thưa Ngài
Phật: Subhuti, tuy vậy thì Bồ Tát phát triển trí tuệ hoàn hảo
này, hay bản tính thật của Phật trong thời gian bằng cái búng tay thì có được
công đức hoàn toàn khác và không thể nghĩ được. Trí tuệ hoàn hảo này của Bồ Tát
rất vô cùng lợi ích, vì Trí tuệ hoàn hảo cung cấp cho người này sự nhận biết
Bodhi Vô thượng này. Bồ Tát lúc này rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo vì người
này khát vọng đạt được Bodhi, được biết đến như là vị trí tối thượng có chung
(common to) với tất cả mọi người, như là người bảo vệ cho những kẻ thế cô và
giúp họ với được tới cầu (sphere), lĩnh vực của Phật, để bắt chước theo tính
người (humaness) của Phật, đi (sport) như Phật đi, hống như sư tử Phật hống, đạt
được những thành tựu của Phật và diễn giải pháp này trong đại thiên thế giới.
Khi Bồ Tát rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo thì Ta không thấy không có sự thành
tựu nào mà người này không rèn luyện trong ấy.
Bồ Tát và Thanh Văn đệ tử
Subhuti: Vậy Bồ Tát cũng rèn luyện trong sự thành tựu của
Thanh Văn?
Phật: Người này cũng rèn luyện như vậy. Nhưng người này
không rèn luyện với tư tưởng rằng sẽ tiếp tục thành tích của Thanh Văn mãi mãi,
hay nghĩ rằng sẽ biến nó thành của mình hay của người khác. Người này không rèn
luyện như vậy. Người này biết được những giá trị của Thanh Văn, nhưng không trụ
tại đây. Người này đồng hóa (assimilate) với họ, nhưng không chống đối họ
Người này rèn luyện với mục đích là diễn tả và tiết lộ những
phẩm chất của Thanh Văn. Khi rèn luyện như vậy thì Bồ Tát đang có được điều kiện
khiến mình xứng đáng được Chư thiên, người và A tu la cúng dường. Những người
như vậy vượt lên trên những người khác đáng được cúng dường, những người liên
quan tới Thanh Văn hay Duyên Giác. Và sự toàn giác thì đã ở gần người này. Khi
rèn luyện như vậy thì Bồ Tát không rời khỏi Trí tuệ hoàn hảo, trái lại là trụ tại
đây, không thiếu sự đứng vững trong Trí tuệ hoàn hảo. Khi đi trên con đường này
thì Bồ Tát được biết đến như là “không thất bại, chắc chắn không thất bại” khi
nhắc đến sự toàn giác, và không trụ tại địa vị Thanh Văn hay Duyên Giác
Người như vầy thì đã tiến gần đến Bodhi. Tuy vậy, người này
sẽ có suy nghĩ này “Chính Trí tuệ hoàn hảo đã đem đến sự toàn giác này”, lúc
này thì người nghĩ như vậy không đi trên Trí tuệ hoàn hảo. Mặc khác, người như
vậy (làm đúng) thì không có ý nghĩ về sự hoàn thiện trí tuệ. Không nhìn nhận
hay nghĩ rằng “đây là Trí tuệ hoàn hảo”, hay “điều này dẫn đến sự toàn giác”.
Khi Bồ Tát đi như vậy thì chính là đi trên Trí tuệ hoàn hảo
Chương XXVI
Như huyễn hóa, ảo tưởng
Sakra ca tụng các Bồ Tát
Lúc này, Sakra nghĩ: Bồ Tát khi đi như vậy thì vượt trên tất
cả; không cần phải nói tới khi đạt được Bodhi! Những người như vậy thì gặt hái
được lợi lớn, người này sống một cuộc sống tốt khi mà suy nghĩ của họ tiến tới
sự toàn giác; không cần phải nói tới khi họ nhận thức được Bodhi! Để bắt chước
như họ, là tối tôn trên tất cả, là đạt được Bodhi!
Lúc này, Sakra biến hiện hoa Mandarava, chào kính cẩn và rải
hoa lên Thế Tôn, nói rằng: Cầu chúc cho những người nguyện đi theo con đường Bồ
Tát, và những ai đã tiết lộ và nhận biết được Bodhi sẽ thành công trên con đường
đến Chánh Đẳng Giác, và hơn thế nữa là giải cứu những chúng sinh khỏi biển sinh
tử và đến được tới bờ bên kia! Cầu chúc cho những suy nghĩ về Bodhi mà người
này hằng mong ước, nghĩ nhớ và nắm bắt, sẽ hoàn thiện tất cả các pháp của Phật, và pháp đúng theo sự toàn giác, pháp của sự Tự
tồn tại, pháp siêu việt! Tôi không chút nghi ngờ rằng những Bồ Tát như vậy, có
tâm đại bi như vậy sẽ thoái chuyển Bodhi, hay những người nguyện theo Bồ Tát thừa
và quyết tâm tiến đến Bodhi sẽ thoái chuyển. Mặc khác, tôi nghĩ rằng quyết tâm
của người này muốn biết được và nhận thức Bodhi sẽ mãi tăng trưởng, khi người
này quan sát những chúng sinh trên thềm sanh tử. Vì nhờ lòng đại bi mà những
người này mong muốn điều tốt cho thế giới với các Chư thiên, người và A tu la,
muốn lợi ích cho họ, đầy thương xót họ, và những người có được thái độ này của
tâm thì trụ tại thái độ và sự quyết tâm như vầy...”Chúng tôi đã vượt qua bờ bên
kia, chúng tôi giúp đỡ người khác vượt qua bờ bên kia! Được giải thoát, chúng
tôi giải thoát họ! Được hồi phục, chúng tôi giúp họ được hồi phục! Đến được bờ
Nirvana, chúng tôi dẫn dắt họ tới Nirvana! “ Gaté Gaté Paragaté Parasamgaté
Bodhi Svaha!”
Sự tùy hỷ, chuyển giao và công đức
(Kausika):Thiện nam hay thiện nữ hào tùy hỷ trước sự sản
sinh ý nghĩ này của bất cứ Bồ Tát , mới bước đi trên thừa, cũng như sự sản sinh
của suy nghĩ nhận thức rằng sự tiến triển thì luôn luôn trên đường đi
(progression as on course), cũng như bản tính của sự bất thoái chuyển của bất cứ
ai nhận thức được sự bất thoái chuyển, cũng như bản tính của những ai chỉ còn 1
lần tái sinh- vậy công đức của người này khác ở chỗ nào?
Phật: Kausika, có người có thể biết được và đo lường được
núi Tudi, núi chúa, hay của một thế giới hệ, cho đến đại thiên thế giới, chỉ
qua một mẩu rơm, nhưng không ai có thể biết được công đức của thiện nam hay thiện
nữ, hay Bồ Tát có được từ việc suy nghĩ đến sự tùy hỷ này.
Sakra: Những người đi trên Bồ Tát thừa-vốn bắt đầu từ suy
nghĩ đầu tiên của Bodhi và kết thúc tại sự Bodhi Chánh Đẳng - mà không nghe, lại
không biết, không thấy, không giữ trong trí được công đức vô biên của sự tùy hỷ
này thì chính là bị Ma ảnh hưởng. Những người này là hội viên của Ma, chết sanh
cõi Ma. Vì những ai nghĩ tới những suy nghĩ này, chuyển giao thành Bodhi, tùy hỷ
với những việc này, những người này làm như vậy là để nhận biết được cõi Ma,
như sự thật của nó. Thưa Ngài, ta cần tùy hỷ trước những giai đoạn suy nghĩ mà
Bồ Tát phát tâm đến với Bodhi. Thiện nam và thiện nữ thì không rời bỏ Phật,
Pháp, Tăng, và họ tùy hỷ trước những giai đoạn của suy nghĩ về Bodhi!
Phật: Đúng như vậy, Kausika. Những thiện nam, nữ nào tùy hỷ
trước những giai đoạn suy nghĩ về Bodhi, những người này đều làm như vậy bất luận
là thuộc Bồ Tát, Thanh Văn hay Duyên Giác thừa- những người như vậy sớm làm Phật
vui lòng, và không làm Phật bất mãn
Sakra: Đúng vậy, thưa Ngài. Lúc này và bây giờ, những người này
được tái sinh nhờ những thiện căn này, khi tâm họ vui mừng, tùy hỷ, họ sẽ được
tôn trọng, thờ kính và được yêu mến. Những người này sẽ không thấy những cảnh
tượng khó ưa, nghe những âm thanh khó ưa, ngửi mùi khó chịu, nếm những vị khó nếm,
không chạm vào những gì không dễ chịu. Ta biết rằng những người này được tái
sinh ở thiện căn của tất cả chúng sinh, những thiện căn đem lại niềm vui cho tất
cả mọi người. Suy nghĩ tùy hỷ của những người, vì muốn có được Bodhi, tùy hỷ
trước từng giai đoạn của suy nghĩ Bodhi ở người muốn đạt được Bồ Tát thừa, khi
những suy nghĩ này tăng trưởng, thì chúng sẽ nuôi dưỡng Bodhi. Khi những người
này nhận thức được Bodhi thì họ sẽ dẫn dắt vô số người đến Nirvana
Phật: Đúng vậy, Kausika, chính đúng là điều mà ông nói qua
thần lực Phật. Nhờ những suy nghĩ tùy hỷ trước từng giai đoạn liên tiếp của suy
nghĩ về Chánh Giác ở người đạt được Bồ Tát thừa mà thiện nam, nữ này tùy hỷ trước
căn lành của vô số chúng sinh, gieo trồng và làm thuần thục những căn lành này.
Bản chất của sự huyễn hóa
Subhuti: Nhưng làm sao mà suy nghĩ này, vốn như là huyễn
hóa, lại có thể biết được Bodhi?
Phật: Subhuti, ông có nghĩ rằng suy nghĩ như huyễn hóa này
là một thực thể riêng biệt và có thật chăng?
Subhuti: Không, thưa Ngài.
Phật: Ông có thấy huyễn hóa như là một thực thể riêng biệt
và có thật chăng?
Subhuti: Không, thưa Ngài.
Phật: Cũng vậy, nếu ông không thấy sự huyễn hóa, hay suy
nghĩ vốn là huyễn hóa, như là một thực thể riêng biệt và có thật, vậy có lẽ nào
ông có thể thấy rằng pháp biết được Bodhi là thứ gì đó khác với sự huyễn hóa
chăng, hay là khác với suy nghĩ vốn là ảo tưởng?
Subhuti: Không, thưa Ngài, con không thấy. Và vì vậy, con có
thể chỉ vào pháp nào mà nói “đây là như vậy” hay “đây không phải là như vậy”.
Cũng vậy, bất cứ pháp hoàn toàn tách biệt nào cũng không biết được Bodhi. Lúc
này, thưa Ngài, trí tuệ hoàn hảo thì tuyệt đối tách biệt. Nhưng pháp nào không
tuyệt đối tách biệt thì không phải là pháp có thể phát triển được, điều này
cũng không đem lại hay lấy đi bất cứ pháp nào. Vậy làm sao mà Bồ Tát, khi dùng
đến trí tuệ hoàn hảo vốn hoàn toàn tách biệt, lại có thể biết được Bodhi? Chính
Bodhi cũng hoàn toàn tách biệt, và vì Bodhi thf hoàn toàn tách biệt, làm sao mà
điều tách biệt lại có thể được biết đến qua điều tách biệt?
Phật: Đúng vậy, Subhuti. Chính vì trí tuệ hoàn hảo thì hoàn
toàn tách biệt mà sự tách biệt hoàn toàn của Bodhi thì được biết đến. Nhưng nếu
Bồ Tát nghĩ rằng trí tuệ hoàn hảo thì tách biệt hoàn toàn, thì đây không phải
là trí tuệ hoàn hảo. Chính vì vậy chắc chắn là nhờ hoàn thiện trí tuệ mà Bồ Tát
biết được Bodhi, và người này không thể đạt được điều này nếu không sử dụng điều
này. Sự (những điều) tách biệt không thể được biết qua những điều tách biệt,
nhưng tuy vậy Bồ Tát biết được Bodhi, và biết được Bodhi không phải là không nhờ
vào trí tuệ hoàn hảo
Subhuti: Theo như con hiểu ý của Phật dạy thì Bồ Tát theo
con đường này đi trên vật thể (object) không thể dò tới được
Phật: Bồ Tát đi trên vật thể không thể dò được thì đúng là
đang làm việc rất khó, và tuy vậy vẫn không nhận thức (realize) những vật thể
đó, như ở cấp độ Thanh Văn hay Duyên Giác
Subhuti: Theo như con hiểu ý của Phật dạy thì ở đây không có
Bồ Tát nào làm những việc khó. Vì chính pháp này không được đạt tới (not got at
which is realized) mà được nhận thức, cũng không có gì được tiết lộ hay nhận
ra, cũng không có phương tiện nào mà qua đó người này có thể nhận ra. Chính vì
vậy, khi điều này được nói ra (pháp này?) thì Bồ Tát không thất vọng, không thản
nhiên, không sợ sệt, không thoái chuyển, mà vẫn giữ không sợ thì người này đi
trên Trí tuệ hoàn hảo. Khi người này không thấy điều này như là một sự thật hiển
nhiên khi đi trên con đương này thì người này đang đi trên Trí tuệ hoàn hảo.
Khi người này không nghĩ rằng đây là một sự thật đúng, người này tức đã đến gần
Bodhi, người này đang đi trên Trí tuệ hoàn hảo. Vì người này không nghĩ rằng
mình đang xa rời cấp độ Thanh Văn và Duyên Giác, người này đang đi trên Trí tuệ
hoàn hảo. Người này không nghĩ rằng “Tôi đã đến gần đây, tôi đã rời xa kia”, vì
không gian thì không thể có được những sự phân biệt như vậy, cũng như vậy, Bồ
Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì không nghĩ rằng “tôi đã đến gần tới Bodhi, và
đã rời xa cấp độ Thanh Văn hay Duyên Giác”
Trí tuệ hoàn hảo thì không phân biệt. Cũng giống như người
được biến hiện, làm từ ảo thuật thì người này không nghĩ rằng “người tạo ra tôi
thì ở gần “tôi”, và đám đông này thì ở xa tôi”, vì người huyễn hóa thì không
nghĩ như vậy, không phân biệt như vậy. Cũng giống như hình phản chiếu của một vật
từ tấm gương hay hồ nước, nó không nghĩ rằng “vật thể tạo ra hình ảnh của tôi
thì gần tôi, còn những người đến từ xa lại và phản rọi hình ảnh của họ trong
gương hay mặt nước thì từ xa đến, xa tôi.” Vì sự phản chiếu của hình ảnh này
không phân biệt. Cũng giống như Phật, người đã từ bỏ hết thảy các sự phân biệt
và kiến lập, không thấy gì là thân thương hay không thân thương, cũng như vậy,
Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì nghĩ như vậy, vì ở đây không có sự phân biệt
thuộc về Trí tuệ hoàn hảo. Cũng như Phật đã từ bỏ hết thảy các sự phân biệt và
kiến lập, Trí tuệ hoàn hảo cũng từ bỏ hết thảy các sự phân biệt và kiến lập. Người
huyễn hóa mà Phật biến hiện ra thì không nghĩ rằng “địa vị Thanh Văn hay Duyên
Giác thì cách xa tôi, còn Bodhi thì gần tôi” vì người huyễn hóa thì không thể
phân biệt được. Cũng như vậy, Bồ Tát rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo thì không
nghĩ rằng địa vị Thanh Văn hay Duyên Giác thì cách xa tôi, còn Bodhi thì gần
tôi, đây là thành quả có được từ sự vắng mặt của bất cứ và tất cả sự phân biệt
nhờ có Trí tuệ hoàn hảo. Một người huyễn hóa do Phật tạo thành để làm một việc
gì đó, làm việc này nhưng không phân biệt, vì được tạo thành như vậy nên người
này không có sự phân biệt. Cũng như vậy, Bồ Tát làm việc để phát triển Trí tuệ
hoàn hảo, nhưng chính Trí tuệ hoàn hảo này thì không phân biệt, chính vì nó được
tạo thành như vậy mà Trí tuệ hoàn hảo không có phân biệt. Người làm nhà, hay thợ
làm nhà có thể tạo từ gỗ một người tự động, là nam hay nữ, một con rối có thể
di chuyển được bằng cách kéo dây. Bất cứ hành động nào mà nó làm, hay được chế
tạo ra để làm, thì chiếc máy gỗ này không có phân biệt. Chính vì nó được tạo
thành như vậy nên nó không phân biệt. Cũng vậy Bồ Tát làm việc như vậy để phát
triển Trí tuệ hoàn hảo, nhưng Trí tuệ hoàn hảo thì không phân biệt, chính vì
Trí tuệ hoàn hảo được cấu tạo như vậy nên không có sự phân biệt.
Chương XXVII
Cốt lõi
Sự can đảm của Bồ Tát trong việc khó khăn
Sariputra: Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì đi vào sự
trong mờ mờ của cốt lõi và bản chất của sự vật
Subhuti: Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì, Sariputra,
cũng như trong mờ (translucently), ...không có trung tâm hay biên giới, ở pháp
không có cả tính thật thể
Ngay lúc này và bây giờ, hàng ngàn các chư thiên cõi dục giới
đồng có suy nghĩ này: Kính lễ tới những ai phát tâm Bodhi, và hoàn thiện những
suy nghĩ Bodhi này, những người đi trên Trí tuệ hoàn hảo cực kỳ thâm sâu này,
và khi đi như vậy thì họ không nhận ra bất cứ giới hạn nào của sự thực, bất luận
là thuộc cấp độ Thanh Văn hay Duyên Giác. Theo cách hiểu này thì Bồ Tát như vậy
là người làm việc khó, vì họ đi trên bản chất đúng của pháp, nhưng không nhận
thức chúng là như vậy, vì ở sự thật này thì không có gì để tiết lộ (biết), và
thực sự là không có gì để nhận ra. Đây chính là Sự thể như vậy. Chúng ta, giống
như bất cứ hay tất cả các pháp, đều là như vậy, đều như chính chúng ta đây, trước
khi suy nghĩ và vượt lên trên những suy nghĩ muốn tìm kiếm điều này...và khi
chúng ta bắt đầu tìm kiếm thì chúng ta không còn là những gì mà chúng ta tìm kiếm,
vì ta nghĩ rằng điều này (chính ta) là một thứ gì khác với cái mà nó thực sự là
vậy.
Subhuti đọc được suy nghĩ của họ và nói: Việc mà Bồ Tát
không nhận ra bất cứ giới hạn hiện thực nào thì không khó lắm. Cái khó, và khó
nhất chính là những người này mặc áo giáp quyết tâm dẫn dắt vô số chúng sinh đến
Nirvana, nhưng theo một cách tuyệt đối là những chúng sinh như vậy không tồn tại.
Và vì họ không tồn tại nên không thể được nắm bắt lấy
Chính vì sự tách biệt của chúng sinh mà những người rèn luyện
như vậy thì tuyệt đối không tồn tại. Chính theo tinh thần này mà Bồ Tát nhận biết
được Bodhi, và quyết định giáo hóa chúng sinh. Vì sự tách biệt của chúng sinh
thì được biết như chỉ là thiết kế (design) của sự tách biệt của không gian.
Cũng như vậy, Bồ Tát là người làm những việc khó khi mặc áo giáp cho lợi ích của
mọi người, những người không tồn tại và không thể được tiến tới, nắm bắt
Người này quyết định mặc không gian lên mình, cũng giống như
người mặc áo giáp cho lợi ích của chúng sinh. Và tuy vậy, áo giáp này, vốn
không thể bị dập tắt (như không gian) thì Bồ Tát mặc lên vì lợi ích của mọi người.
Nhưng sự không nắm bắt chúng sinh này, theo hiện thực tuyệt đối thì chính được
dạy bởi Phật. Và chính sự không nắm bắt chúng sinh này thì được suy ra từ chính
sự tách biệt này, và sự tách biệt của chúng sinh Bodhi (Bodhi-being) xuất phát
từ sự tách biệt của bất cứ ai được giảng dạy, rèn luyện như vậy. Khi Bồ Tát
không thoái tâm khi điều này được diễn giảng thì ta biết người này đi trên Trí
tuệ hoàn hảo. Vì từ sự tách biệt của chúng sinh mà ta biết được sự tách biệt của
các uẩn...điều này cũng giống như vậy đối với các pháp. Chính nhờ đây mà ta nhận
biết, nhìn nhận sự tách biệt của tất cả pháp. Khi sự tách biệt của tất cả pháp
được diễn giảng, mà Bồ Tát không thoái tâm thì ta biết người này đang đi trên
Trí tuệ hoàn hảo.
Phật: Vì lý do nào mà Bồ Tát không thoái tâm khi sự tách biệt
của tất cả các pháp này đang được diễn giảng?
Subhuti: Chính vì sự tách biệt mà không có pháp nào bị thoái
tâm. Vì ta không thể tiến đến được pháp nào thoái tâm, cũng không có pháp nào
khiến một pháp bị thoái tâm
Phật: Đúng vậy, Subhuti. Khi Bồ Tát không thoái tâm, không
buồn chán hay tuyệt vọng, không lo sợ hay thản nhiên, không quay lưng, không sửng
sốt (have one’s back broken), và không lo sợ khi điều này được giảng dạy, diễn
giải và chỉ ra thì ta biết người này đi trong sự hoàn hảo của trí tuệ, trí tuệ
tự nhiên.
Bồ Tát được chư Thiên bảo vệ khỏi ác Ma
Subhuti: Đúng như vậy. Khi Bồ Tát rèn luyện như vậy thì
chính là đi trên Trí tuệ hoàn hảo. Và chư thiên xung quanh Đế Thích, Brahma,
xung quanh Prajapati, Ishana, và đoàn người nam nữ xung quanh Rishis, từ xa chắp
tay kính lễ Bồ Tát như vậy
Phật: Không phải chỉ có họ mà những chư thiên khác cho đến
trời Akanistha cũng kính lễ người như vậy. Và với Phật nhãn, các chư Như Lai ở
trong vô số thế giới hệ cũng quan sát Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo này, và
các Ngài giúp đỡ người này, nghĩ đến người này. Subhuti, những Bồ Tát đi trên
Trí tuệ hoàn hảo thì chắc chắn được Phật giúp đỡ, và được Phật nghĩ đến, được
giữ trong trí như là những người bất thoái chuyển Bodhi, được biết đến là như vậy
và tiết lộ là như vậy. Không có trở ngại nào được xem như là Ma làm có thể ngăn
cản những người này
Ngay cả khi trong tam thiên đại thiên thế giới này tất cả
chúng sinh đều biến thành Ma, và mỗi người trong họ biến hiện ra một đạo quân
ma, tất cả sức mạnh củ những kẻ này không thể cản trở được đường đến Bodhi của
Bồ Tát được Phật nhớ đến và lại đi trên Trí tuệ hoàn hảo. Và điều này cũng đúng
nếu như trong vô số đại thiên thế giới
này tất cả chúng sinh đều biến thành Ma, và mỗi người trong họ biến hiện ra một
đạo quân ma. Có được 2 pháp này thì Bồ Tát được an toàn không bị trở ngại bởi
những điều tấn công được xem như và nghĩ như là đến từ Ma, hoặc đạo quân Ma: 1)
không bỏ rơi bất cứ chúng sinh nào và 2) Người này xem tất cả các pháp như được
phản chiếu từ sự vắng lặng. Có 2 pháp nữa cũng có công hiệu giống vậy: 1) Người
này nói sao thì hành vậy, và 2) Người này được Phật nhớ tới, nghĩ trong trí
Khi Bồ Tát đi như vậy thì chư thiên cũng hiện tới gặp người
này và hỏi cũng như bàn luận để kính lễ và làm tăng thêm nhuệ khí, sự quyết tâm
của người này, họ nói: “Thiện nam tử, ông sớm sẽ đạt được Bodhi! Lúc này, ông
hãy cứ trụ tại Trí tuệ hoàn hảo này! Chính vì thế ông giữ an toàn cho những người
không được giúp đỡ, là chỗ dựa của những người không thể tự vệ, chỗ trú cho những
ai không nơi nương tựa, nơi nghỉ chân cho những ai không có chỗ nghỉ, cứu trợ
cho những ai không được hỗ trợ, là ốc đảo cho người không có, là ánh sáng cho
người mù, người dẫn đường cho kẻ lạc lối, là chỗ đến của người không có nơi
nương tựa, và ông dẫn đường tới nơi cho những người bị lạc, chính vậy ông trở
thành chỗ dựa cho những người không có chỗ dựa”
Chư Phật ca ngợi Bồ Tát
Lúc này, chư Phật ở trong vô số thế giới hệ, hiện đang diễn
nói pháp, được bao quanh bởi tăng chúng và một số đông Bồ Tát cũng nhắc tới
tên, thị tộc, năng lực, hình tướng và diện mạo của Bồ Tát đi trên và trụ tại
Trí tuệ hoàn hảo, và có được đức tính du hành trong Trí tuệ hoàn hảo, hoàn thiện
trí tuệ. Và các Phật diễn nói pháp, hân hoan với Bồ Tát này, nói lên tên, thị tộc,
năng lực, màu sắc. Chính lúc này và tại đây ta diễn nói pháp, và nói lên tên,
vv của Bồ Tát Ratnatketu, và Bồ Tát Sikhin. Ta hân hoan cho họ, và cùng với những
Bồ Tát vừa rồi sống đời sống thánh thiện nơi cõi Phật Akshobhya. Theo cách
tương tự, các Phật ở cõi Phật cũng nói lên tên, vv của Bồ Tát sống thánh thiện ở
cõi Phật này, và lại trụ nơi Trí tuệ hoàn hảo. Và các Phật hân hoan cho những
người như vầy
Subhuti: Vậy các Phật có tôn trọng tất cả Bồ Tát theo cách
này không?
Phật: Không, Subhuti. Chỉ những ai bất thoái chuyển và không
còn ràng buộc.
Subhuti: Ngoài Bồ Tát bất thoái chuyển ra, các Phật có tôn
trọng các Bồ Tát khác như vậy không?
Phật: Có, những người sau đây. Hoặc là những người thuộc Bồ
Tát thừa, mạnh mẽ đồng hóa với những ai được xem như là kẻ thù. Họ là những người
vừa mới học cách rèn luyện của Bồ Tát qua sự chỉ dạy của Phật Akshobhya, và Bồ
Tát Ratnaketu, đi trên chuyến hành hương của Bồ Tát, và trụ, chuyên tâm học như
vậy. Hơn nữa còn có Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo và tin tưởng chắc chắn rằng
“tất cả các pháp vốn không sinh”, mặc dù chưa chứng được vô sinh pháp nhẫn một
cách hoàn toàn; hoặc là người tin tưởng chắc chắn rằng “tất cả các pháp thì vắng
lặng, thanh bình” mặc dù chưa nhập vào lĩnh vực bất thoái chyển đối với tất cả
các pháp; những Bồ Tát nào trụ tại như vầy thì các Phật đều tôn trọng như trước
đã nói. Bồ Tát nào được Phật nhắc tới tên, vv và được các Phật hân hoan thì đã
từ bỏ địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, và biết chắc rằng người này đã đến địa vị
Phật Đà. Và những người này được thọ ký. Vì những Bồ Tát nào được Phật nhắc tới
tên, vv và được các Phật hân hoan thì đã là trụ tại bất thoái chuyển
Bodhi và Sự thể như vậy
Hơn thế nữa, Subhuti, Bồ Tát là bất thoái chuyển khi nghe được
Trí tuệ hoàn hảo này thì tin tưởng tuyệt đối, không u mê, không nghi ngờ, do dự;
như sự tin tưởng tuyệt đối này, cũng vậy, Phật đã dạy “những người này sẽ tiếp
tục lắng nghe Trí tuệ hoàn hảo kỹ lưỡng hơn; và khi họ đã quyết tâm lắng nghe kỹ
hơn nữa Trí tuệ hoàn hảo này nơi Đức Phật Akshobhya; và họ tin tưởng chắc chắn
khi chỉ nghe được Trí tuệ hoàn hảo này nơi những người đã nguyện đi theo Bồ Tát
thừa này, những Bồ Tát này sống thánh thiện nơi cõi Phật này. Chính vì vậy ta
nói, chỉ lắng nghe Trí tuệ hoàn hảo thôi thì cũng đã đạt được nhiều ích lợi.
Không cần phải nói đến người tin tưởng tuyệt đối, khi nghe được điều này thì tiếp
nhận đi cùng theo vị trí này liên quan đến Sự thể như vậy, và tiến tới Sự thể
như vậy, và lại trụ tại Sự thể như thế (Suchness), và trụ vững tại đây, và tại
toàn giác, lại diễn nói pháp thì người này đạt được lợi ích nhiều mức nào.
Subhuti: Vì, thưa Ngài, ta không thể tiến đến pháp nào khác,
riêng biệt với Sự thể như vậy, vậy pháp trụ vững tại Sự thể như vậy là pháp gì,
hay pháp nào biết được Bodhi, hay ai có thể diễn đạt được pháp này?
Phật: Không ai có thể tiến đến được pháp nào khác, riêng biệt
với (distinct from) Sự thể như vậy, vốn trụ vững tại Sự thể như vậy. Chính Sự
thể như vậy này thì không được nắm bắt, và càng khó nắm bắt hơn nếu người này
trụ tại Sự thể như vậy. Sự thể như vậy thì khoog biết Bodhi, và không có pháp
nào được nắm bắt (got at) mà biết được Bodhi, hay có thể biết được. Sự thể như
vậy không diễn tả pháp, và pháp được diễn nói này không thể được nắm tới được.
Sự vắng lặng và trụ tại Trí tuệ hoàn hảo
Sakra: Trí tuệ hoàn hảo thật là thâm sâu, thưa Ngài. Bồ Tát
muốn biết được Bodhi thì quả thật là một việc khó làm. Sự thật là vậy, không có
pháp nào trụ tại Sự thể như vậy, không có pháp nào biết được Bodhi, không ai diễn
tả các pháp. Tuy vậy người này không sợ hãi trước điều này, cũng không do dự
hay bị làm kinh ngạc
Subhuti: Kausika, ông nói “Bồ Tát khi nghe được pháp thâm
sâu như vầy mà không do dự hay kinh ngạc thì quả là làm một điều rất khó”.
Nhưng nếu tất cả các pháp đều vắng lặng thì làm sao mà có ai do dự hay kinh ngạc?
Ở đây làm sao có ai bắt đầu đặt một câu hỏi về sự do dự hay kinh ngạc?
Sakra: Những gì ngài Subhuti nói, hay nói điều này đều tham
khảo và nhắc đến sự vắng lặng, và ông không bị bế tắc ở đâu. Sự diễn pháp của
ngài Subhuti không bị tắc ở đâu, cũng giống như mũi tên bay trên không trung.
Và bây giờ, thưa Thế Tôn, khi con nghĩ đến Trưởng Giả Subhuti, và dạy như ngài
Subhuti dạy và diễn giải, có lẽ là người đã diễn giảng chính xác sự thật của Phật,
(Now perhaps, O Lord, I, as I take into consideration Subhuti the Elder, and
teach as he thus teaches and expounds, may be one who correctly preaches
Tathagata-truth ), người thuyết pháp, và là người tuyên bố trình tự lô gic của
pháp
Phật: Đúng như vậy, Kausika. Khi ông chỉ dạy và giải thích
như ngài Subhuti, thì ông trở thành người giảng pháp về sự thật của Thế Tôn,
người thuyết pháp, và là người tuyên bố trình tự lô gic của pháp. Vì bất cứ điều
gì mà trưởng giả Subhuti làm sáng tỏ thì ông ta làm như vậy nhờ nhắc đến sự vắng
lặng. Suy cho cùng thì Trưởng giả Subhuti không xem xét hay nắm bắt Trí tuệ
hoàn hảo, huống gì có thể đi trên Trí tuệ hoàn hảo. Bodhi, để khởi đầu thì ông
ta cũng không nắm tới, huống gì nắm bắt tới người đã đạt được Bodhi.
Ngay cả sự toàn giác ngài Subhuti cũng không nắm bắt được (nắm
bắt nghĩa là trụ vào làm cơ sở, hay suy nghĩ tới được), huống gì người đã đạt đến
sự toàn giác thì làm sao ngài Subhuti nắm tới được. Ngay cả “sự thể như vậy”
ngài Subhuti cũng không nắm bắt được, huống gì người đã thành Phật thì làm sao
ngài Subhuti nắm tới được. Ngay cả sự vô sinh ngài Subhuti cũng không nắm tới
được, huống gì người đã tới được Bodhi thì làm sao ngài Subhuti nắm tới được.
Ngay cả những năng lực, ngài Subhuti cũng không nắm bắt được, huống gì người có
được năng lực này thì làm sao ngài Subhuti nắm tới được. Ngay cả cơ sở sự tự
tin ngài Subhuti cũng không xem xét (review), huống gì người có tự tin thì làm
sao ngài Subhuti nắm tới được.
Ngay cả pháp ngài Subhuti cũng không nắm bắt được, huống gì
người diễn thuyết pháp thì làm sao ngài Subhuti nắm tới được. Vì trưởng giả
Subhuti trụ tại sự tách biệt của tất cả các pháp, và sự không có cơ sở nắm bắt
của các pháp. Và như Ngài Subhuti trụ tại sự tách biệt và vắng lặng của các
pháp thì là vô cùng nhỏ so với Bồ Tát trụ trong Trí tuệ hoàn hảo, tự hoàn thiện
và trụ tại nơi đây
Như ông thấy, Kausika, ngoại trừ sự cư ngụ, trụ lại của Phật
thì sự trụ của Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì vượt trên tất cả sự trụ, cư
ngụ khác. Sự trụ này được diễn tả như là tiên hết, là tốt nhất, chọn lọc nhất,
xuất sắc nhất, cao siêu nhất, cao nhất, tối thượng, không gì bằng, không thể so
sánh. Nó vượt trên sự cư ngụ của Thanh Văn hay Duyên Giác. Lúc này, Kausika, nếu
có thiện nam hay thiện nữ có ước muốn đến được cấp độ cao nhất có thể của sự
hoàn hảo của tất cả chúng sinh, muốn đến được trạng thái tốt nhất, chọn lọc nhất,
xuất sắc nhất, cao siêu nhất, trạng thái không thể so sánh- những người như vậy
kiên trì mong muốn trụ tại sự trú ngụ của Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo, và
trụ tại đấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét