Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

28-29

Chương XXVIII
Avakirnakusuna
Sự thọ ký của Avakirnakusuma (nghĩa: bao phủ bởi hoa)
Lúc này, chư thiên cõi 33 (Đao Lợi) dùng hoa Mandarava (Mạn đà la) và Mahamandarava và tiến tới Đức Phật. Và cùng lúc này, có 6000 tăng cũng tụ họp và ngồi trong hội. Họ rời khỏi chỗ ngồi, vắt vạt áo sang vai bên phải, gối bên phải chấm đất và chắp tay chào Phật. Nhờ thần lực của Phật mà trong tay họ có đầy hoa Madarava và hoa Mahamandarava. Họ dùng những hoa này rải lên Phật và nói: “Thưa Phật, chúng con đi trên Trí tuệ hoàn hảo!”. Lúc này và tại đây, khi tiến trình diễn biến thì Đức Phật nở một nụ cười. Khi nụ cười được hiển thị thì vô số ánh sáng đủ màu phát ra từ miệng Phật- tia sáng xanh dương, vàng, đỏ, trắng, đỏ thẫm, màu tinh thể, bạc màu da cá, và hòang kim. Những tia này soi sáng vô tận vô biên thế giới hệ bằng sự lộng lẫy này, vượt trên đến thế giới Brahma, và trở về thế giới của Phật, bay xung quanh Phật 3 vòng rồi nhập vào đỉnh đầu của Phật. Lúc này, ngài Anan rời khỏi chỗ ngồi, vắt vạt áo sang vai bên phải, gối bên phải chấm đất, chắp tay lại và nói: Không phải vô cớ mà Thế Tôn lại mỉm cười. Vậy vì sao mà Ngài lại cười?
Đức Phật liền nói: 6000 vị tăng này, Anan, tương lai ở vô số kiếp sẽ đạt được Bodhi, và ở đây họ sẽ diễn thuyết pháp cho mọi người. Họ đều đồng một tên là Avakirnakusuma. Những vị Phật này sẽ là thầy trong thế giới. Họ cũng có hội chúng đệ tử giống nhau. Đều sống lâu như nhau là 20000 kiếp. Mỗi người trong họ đều có lệnh, trát (writ) thánh thiện sâu rộng, sẽ trải dài trong chư Thiên và nhân loại. Ở mỗi trường hợp chánh pháp của họ tồn tại lâu như nhau là 20000 kiếp. Và mưa hoa đủ màu sắc đều hạ xuống họ ở bất cứ nơi đâu mà họ đến, nhà cửa, làng xóm, thành thị, chợ búa, hay ở nơi họ sẽ chuyển đẩy pháp luân, bất cứ nơi đâu họ cư trú, hay xuất hiện
Ca ngợi Trí tuệ hoàn hảo
Vậy bây giờ, Anan, trong bất cứ 3 thời này, Bồ tát muốn trụ tại chỗ cư ngụ cao nhất, vượt trên giới hạn, muốn trụ tại chỗ trụ của Phật thì trụ trong chính Trí tuệ hoàn hảo này Với những Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo như vậy, và trở nên như vậy, áp dụng thích nghi như chính mình thì người này chắc chắn, trước khi sinh ở loài người thì sẽ mất (qua đời) ở loài người hay chư thiên cõi Đâu suất (Tushitas). Vì chính ở cõi người và cõi Đâu Suất mà Trí tuệ hoàn hảo này được lưu hành. Chúng ta biết chắc chắn là chư Phật sẽ nhìn thấy những Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo, học, giữ trong trí, chuyên tâm tu luyện, nhắc đến, lặp lại, hay đơn giản là chỉ viết ra, và cũng giáo huấn những Bồ Tát khác, chỉ dạy và khuyến khích họ
Ông có thể biết rằng những người như vầy đã gieo trồng và sẽ tiếp tục gieo trồng thiện căn ở trong hay vượt lên trên những giới hạn được biết đến, hay bất cứ giới hạn nào được thành lập...và người này làm như vậy và nhìn nhận như vậy khi nghĩ đến Phật. Những người này không chỉ ở nơi Thanh Văn hay Duyên Giác gieo trồng thiện căn để rèn luyện chính mình và người khác nơi Trí tuệ hoàn hảo, nhưng, không nghi ngờ gì nữa, những Bồ Tát này rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo và không sợ hãi, tiếp tục gieo trồng thiện căn nơi các Đức Phật
Bất cứ sự tiếp nhận nào với Trí tuệ hoàn hảo này, giữ trong trí, học, nhắc đến, lặp lại và viết chép, theo đuổi- theo nghĩa, nội dung và cách thức- ta biết rằng chắc chắn những người này đã được gặp mặt đối mặt với các Đức Phật. Vì Bồ Tát không xỉ vả Trí tuệ hoàn hảo này, không chống đối, chối từ hay từ bỏ Trí tuệ hoàn hảo này, chúng ta biết những người này hoàn thành thiện ý như được chỉ ra dưới Jinas, các Đức Phật trong quá khứ
Khi Bồ Tát không đi ngược lại lời nguyện muốn tiết lộ và đã tiết lộ, để nhận biết và đem lại sự nhận biết của Bodhi, người này không đam mê (đem cho? –give over) những căn lành mà mình đã gieo trồng nơi có Phật xuất hiện để thành Thanh Văn hay Duyên Giác như là phần thưởng của mình. Theo như luật lệ, như là nguyên lý không thể hoại diệt có được từ sự phụ thuộc lẫn nhau của bất cứ và tất cả các pháp, Bồ Tát như vậy thì biết ơn và luyện tập không ngừng trong Trí tuệ hoàn hảo này, ngay cả vượt trên hình tướng, cảm xúc, nhìn nhận, phản xạ tự nhiên (impulse), hay ý thức (các uẩn) của những pháp như vậy. Chúng ta biết được điều này, chắc chắn là vậy. Tính tự phát của Sự-thể-như-vậy đã tiết lộ sự nhận thức không thể suy nghĩ, không nằm trong thời gian, sinh ra từ sự nhận biết thuần khiết...giống như không gian
Sự truyền Kinh cho Anan
Thế nên, bây giờ và tại đây, Anan, ta lại một lần nữa giao phó cho ông và gửi gắm nơi ông Trí tuệ hoàn hảo này, được viết bằng chữ, thế nên sẽ dễ học, giữ trong trí, thảo luận, nghiên cứu và lưu truyền rộng rãi, để Trí tuệ hoàn hảo được tồn tại lâu dài, không mau chóng ẩn mất. Nếu, Anan, ông quên hết tất cả các pháp mà ông học được trực tiếp từ ta- ngoại trừ Trí tuệ hoàn hảo này- nếu ông vất đi tất cả, và để chúng bị quên lãng thì đây chỉ là một việc làm sai trái nhỏ đối với các Phật
Nhưng nếu ông quên đi, vất bỏ và để cho quên lãng ngay chỉ một câu trong Trí tuệ hoàn hảo này, hay chỉ một phần của một câu thì đây là tội, sự xúc phạm (offence) tới các Phật, và điều này sẽ làm Ta bất mãn. Và khi ông học Trí tuệ hoàn hảo này, và lại quên đi, bỏ mất, để cho quên lãng, thì ông đã thất bại trong việc tôn kính, thờ phụng các Phật trong tất cả quá khứ, vị lai, hiện tại. Tại đây và bây giờ, Anan, hãy nhớ là đó là một tội nặng với Phật nếu như ông, mặc dù học Trí tuệ hoàn hảo này mà lại quên mất, vất bỏ hay để cho quên lãng thì điều này làm Ta bất mãn. Vì Phật nói “Trí tuệ hoàn hảo này là mẹ, là nguồn gốc không nguồn gốc, là bản sơ của các Phật quá khứ, vị lai và hiện tại, là thầy thuốc cho sự toàn giác”. Tại đây và ngay bây giờ, Anan, Ta giao phó và gửi gắm cho ông Trí tuệ hoàn hảo này, vì vậy đừng để bị ẩn mất
Trí tuệ hoàn hảo này được học, giữ trong trí, nghiên cứu, tụng, viết chép và phát triển. Hãy để tâm và phục vụ tốt, và cũng lưu truyền cho nhiều nơi. Và khi người này học như vậy, người này sẽ cẩn thận nghiên cứu văn phạm, từng từ một, từng âm một, từng chữ một. Chính pháp (viết bằng chữ) này là chủ quyền của pháp-thân của Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Cũng như bây giờ Anan đối xử như vầy với ta, khi ta đang là Phật- sự cô độc (with “solitude”? Hay là “solicitude”- sự lo lắng?), sự yêu thương và tôn trọng- cũng với tinh thần đoan chính, đức hạnh này, ông cũng nên học hỏi Trí tuệ hoàn hảo này, giữ trong trí, nghiên cứu, lặp lại, viết chép và phát triển, tôn kính, tôn trọng và thờ phụng pháp này. Đây chính là để ông tôn thờ, đây cũng là cách để ông bày tỏ thiện chí, biểu lộ lòng tôn trọng, và niềm tinh trong sáng đối với các Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại
Như Ta, Phật Thế Tôn, thì thân mến và và vui lòng (dear and pleasant) đối với ông, Anan, và ông không rời bỏ Ta, thì hiện tại và ở đây Trí tuệ hoàn hảo này cũng sẽ thân mến và vui lòng đối với ông, và ông cũng không nên bỏ Trí tuệ hoàn hảo, không nên quên mất dù chỉ là một từ của Trí tuệ hoàn hảo, để Trí tuệ hoàn hảo không ẩn mất. Ta đã nói lâu với ông về sự ban tặng Trí tuệ hoàn hảo, trong 1 kalpa (kiếp?), hay thời gian còn lại của 1 kalpa, hay 100 kalpa cho đến trăm ngàn ức triệu kalpa, hay hơn nữa. Nhưng nói tóm lại, cũng giống như Ta là thầy của ông, và Trí tuệ hoàn hảo này cũng vậy. Cũng giống như chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại là thầy của thế giới với các chư thiên, người và A tu la, thì Trí tuệ hoàn hảo này cũng vậy
Tại đây và trong lúc này, Anan, Ta giao phó và truyền lại cho ông sự ban tặng vô biên (measureless) này, chính là Trí tuệ hoàn hảo, vốn là vượt trên mọi sự đo lường của hạnh phúc và lợi ích cho thế giới với các chư thiên, nhân loại và A tu la. Chính vì người này không muốn từ bỏ Tam bảo, Phật, Pháp và Tăng, và người này cũng không muốn bỏ mất Bodhi của các Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại, thì người này cũng không bỏ đi Trí tuệ hoàn hảo này! Và đây là một điều dặn nữa- khi những người học, giữ trong trí, nghiên cứu Trí tuệ hoàn hảo, tụng và biên chép thì chính là tham gia và giúp đỡ cho Bodhi của Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Vì bất cứ ai giúp đỡ cho Trí tuệ hoàn hảo, như khi Trí tuệ hoàn hảo được nghĩ là đang ẩn mất đi (crumble away) hay có vẻ là như vậy thì người này giúp đỡ cho sự đạt được Bodhi của Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Phật biết được Bodhi là nhờ có Trí tuệ hoàn hảo này. Và điều này cũng đúng với các chư Như Lai (Tathagata) trong quá khứ, vị lai hay hiện tại.
Lúc này và tại đây, Bồ Tát khát vọng muốn biết được Bodhi và rèn luyện trong 6 ba la mật thì lắng nghe Trí tuệ hoàn hảo này, học, tụng và viết chép, và người này rèn luyện trong chính Trí tuệ hoàn hảo này, và nỗ lực xung quanh Trí tuệ hoàn hảo (around), về Trí tuệ hoàn hảo (about) và bên trong Trí tuệ hoàn hảo. Trí tuệ hoàn hảo này chính là mẹ, là nguồn không phải nguồn (sourceless source) của bản sơ của Bồ Tát. Chính nhờ Trí tuệ hoàn hảo này mà bất cứ Bồ Tát nào rèn luyện trong 6 ba la mật, và ở bất cứ thời gian nào tiến tới Bodhi. Chính nhờ Trí tuệ hoàn hảo này mà Bồ Tát tiến lên 6 ba la mật, vì tất cả các ba la mật này nuôi dưỡng  điều làm tan rã các cấu bẩn và phiền não, và cũng chỉ ra và tiết lộ Bodhi, vì những điều này (Bodhi) được chỉ ra và tiết lộ qua chính Trí tuệ hoàn hảo này.
Tại đây và bây giờ, Anan, ta nhắc lại lần thứ 2, thứ 3, Ta giao phó và truyền lại cho ông Trí tuệ hoàn hảo, để Trí tuệ hoàn hảo không bị ẩn mất. Vì chính Trí tuệ hoàn hảo này là cho vô tận của các pháp của chư Như Lai. Tất cả những pháp mà chư Phật đã nói cho chúng sinh trong quá khứ, ở những thế giới của sinh tử không có khởi đầu và kết thúc, tất cả đều được chỉ ra và tiết lộ từ kho tàng pháp này, từ chính Trí tuệ hoàn hảo này. Cũng như vậy, các pháp mà chư Phật đã diễn nói cho chúng sinh để họ biết được Bodhi trong tương lai, cho tất cả những ai có quan điểm, sự nhìn nhận sữ dẫn họ vượt trên, thoát khỏi vô số thế giới của sinh tử, cũng được tiết lộ và chỉ ra từ chính kho tàng pháp này, chính là Trí tuệ hoàn hảo này. Và chư Phật trụ trong vô số thế giới hệ, và cũng đang diễn thuyết pháp, các vị lấy được sự tiết lộ này từ chính kho tàng pháp Trí tuệ hoàn hảo này. Tại đây và bây giờ, kho tàng của pháp, Trí tuệ hoàn hảo này thì là vô tận, và luôn là như vậy.
Anan, cũng giống như nếu ông thuyết pháp cấp độ Thanh Văn cho những người đi theo Thanh Văn thừa, và nhờ ông diễn pháp như vậy mà tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới chứng được quả vị A la hán, ông vẫn chưa hoàn thành bổn phận như là đệ tử của Ta, giống như ông tiếp tục chuyển pháp luân và diễn thuyết pháp. Mặc khác, nếu ông chỉ diễn giảng 1 câu của pháp liên quan đến Trí tuệ hoàn hảo này cho 1 Bồ Tát thì Ta sẽ rất hài lòng đối với ông, như là đệ tử của ta, ông đã chuyển pháp luân và giảng pháp. Khi ông suy xét về việc giảng pháp mà nhờ đó chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới chứng được A la hán, và những vị A la hán này thực hành công đức bố thí, đức hạnh, thiền định tiếp tục như vậy, thế thì cộng lại có nhiều công đức chăng?
Anan: Đúng là thế, thưa Ngài
Phật: Người đã nguyện đi trên Thanh Văn thừa thì có được công đức khác biệt và không thể đo lường khi người này diễn thuyết pháp liên quan đến Trí tuệ hoàn hảo  cho Bồ Tát. Công đức này cũng sẽ rất khác nếu như Bồ Tát diễn thuyết cho một Bồ Tát khác pháp liên quan đến Trí tuệ hoàn hảo- dù chỉ là trong 1 ngày, hay một buổi sáng, một giờ, nửa giờ, một phút hay một giây, một khoảnh khắc cho đến một thời gian nhỏ nhất của thời khắc. Vì món quà pháp này của Bồ Tát thì khác hẳn với tất cả thiện căn của tất cả những ai nguyện đi theo Thanh Văn hay Duyên Giác thừa. Bồ Tát có được thiện căn như vầy, lại nghĩ đến thiện căn này thì không thể nào thoái chuyển Bodhi. Thật không thể.
Cõi Phật Akshobhya
Lúc này, Phật sử dụng năng lực của mình. Tất cả đại hội bao gồm Tăng, ni, nam nữ tại gia, cùng với chư Thiên, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la gia, người và ma, tất cả, nhờ thần lực của Phật mà thấy được Đức Phật Akshobhya xung quanh là các tăng và đoàn Bồ Tát đang diễn nói pháp, đại hội rộng lớn như biển cả, sâu thẳm và bình lặng, được bao quanh bởi các Bồ Tát có những thuộc tính không thể nghĩ được (unthinkable), với tất cả A la hán các lậu đã hết, vô cấu, hoàn toàn kiểm soát được, tự tại trong tâm, đã giải thoát và thông thái, đầy dũng khí, những việc cần làm đã làm xong, những gánh nặng đã được trút bỏ, những hạnh phúc cũng đã đạt đến được, ràng buộc đã dứt, tâm thư thái nhờ có suy nghĩ đúng đắn, hoàn toàn tự kiểm soát được tâm
Lúc này Phật thu hồi lại năng lực của mình. Và Phật Akshobhya không còn hiện nữa, cùng với tất cả Bồ Tát và Thanh Văn, và cõi Phật không còn nằm trong tầm nhìn của hội chúng. Vì Phật đã thu lại năng lực của mình. Phật lại nói với Anan: Anan, cũng giống như vậy, tất cả các pháp không nằm trong tầm nhìn. Pháp cũng không nằm  trong tầm nhìn của pháp, pháp không thể thấy pháp, pháp không thể biết pháp. Pháp có bản tính là không thể được thấy hay biết, và không có khả năng làm điều gì. Tất cả các pháp đều thiếu sự hoạt động, không thể được nắm bắt, và cũng không hoạt động giống như không gian vậy. Tất cả các pháp thì không thể nghĩ được, cũng giống như người huyễn hóa. Tất cả các pháp thì không thể tìm thấy được, vì chúng ở trong trạng thái không tồn tại. Khi người này đi như vậy, Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo và không trụ tại pháp nào. Khi người này đi như vậy, Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo. Khi Bồ Tát muốn tiết lộ và nhận biết được Bodhi, vốn là sự hoàn hảo của tất cả các sự rèn luyện, người này chính đang rèn luyện và hoàn thiện Trí tuệ.
Vì sự rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo là tiên hết, là tốt nhất, chọn lọc nhất, xuất sắc nhất, cao siêu nhất, cao nhất, tối thượng, không gì bằng, không thể so sánh, điều này đem lại lợi ích và niềm vui cho cả thế giới, được mệnh danh là người bảo vệ cho kẻ thế cô, được chỉ dạy và được ca ngợi bởi Phật. Các Phật, nhờ rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo này, trụ tại đây mà có thể nhấc cả đại thiên thế giới này bằng ngón chân cái, và lại đặt thế giới vào chỗ cũ. Và Phật không nghĩ là “Đại thiên thế giới này vừa được nhấc lên, và lại được thả xuống”, vì Trí tuệ hoàn hảo có được những giá trị vô biên không thể tính toán. Chính nhờ rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo mà các Phật đạt được trạng thái không gắn kết ràng buộc với pháp quá khứ, vị lai và hiện tại. Trong tất cả các sự rèn luyện trong quá khứ, vị lai và hiện tại thì sự rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo là tiên hết, là tốt nhất, chọn lọc nhất, xuất sắc nhất, cao siêu nhất, cao nhất, tối thượng, không gì bằng, không thể so sánh
Sự tận diệt, không tận diệt (non extinction) và Trí tuệ hoàn hảo
Trí tuệ hoàn hảo thì không có giới hạn, không bao giờ cạn kiệt và vô biên, vì những giới hạn, sự cạn kiệt và biên giới thì không có trong Trí tuệ hoàn hảo. Nếu lại gán giới hạn, sự cạn kiệt và biên giới cho Trí tuệ hoàn hảo thì giống như gán những pháp này vào cho không gian. Vì Trí tuệ hoàn hảo thì không có giới hạn, không bao giờ cạn kiệt và vô biên, Ta không dạy rằng Trí tuệ hoàn hảo có những giới hạn, sự cạn kiệt và biên giới.  Cũng như vậy, tổng hợp những từ có trong Kinh này thì không phải là đồng nhất với sụ hoàn hảo, sự đang hoàn thiện hay là Trí tuệ hoàn hảo. Trí tuệ hoàn hảo, mặc dù được gọi là như vậy, nhưng không lệ thuộc vào những giới hạn vật lý, ngôn từ hay tâm thức (mental), Trí tuệ hoàn hảo thì không có bất cứ giới hạn nào
Anan: Vì lý do gì mà Phật lại không dạy bất cứ giới hạn nào đối với Trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Chính vì Trí tuệ hoàn hảo thì không thể cạn kiệt và lại tách biệt. Cũng như không ai có thể nắm bắt được sự tách biệt của bất cứ pháp tách biệt nào, huống gì có thể nào nắm bắt được chu vi có giới hạn của Trí tuệ hoàn hảo? Chính vì vậy, Trí tuệ hoàn hảo này thì vượt trên tất cả sự đo lường, không bị giới hạn, không có bất kỳ giới hạn nào. Phật trong suốt và vượt trên tất cả thời gian lấy sức mạnh từ Trí tuệ hoàn hảo này, và tuy vậy, Trí tuệ hoàn hảo vẫn không bị cạn kiệt, cũng không bị tận diệt. Điều này cũng đúng khi nói các Phật trong tương lai lấy sức mạnh từ Trí tuệ hoàn hảo này, và tuy vậy, Trí tuệ hoàn hảo vẫn không bị cạn kiệt, cũng không bị tận diệt. Các Phật hiện đang ở trong vô số thế giới hệ cũng lấy sức mạnh từ Trí tuệ hoàn hảo này, và tuy vậy, Trí tuệ hoàn hảo vẫn không bị cạn kiệt, cũng không bị tận diệt. Chính ta, Như Lai cũng lấy sức mạnh (của mình) từ Trí tuệ hoàn hảo này, và tuy vậy, Trí tuệ hoàn hảo vẫn không bị cạn kiệt, cũng không bị tận diệt. Cũng như không ai có thể làm cạn kiệt không gian, không ai có thể làm cạn kiệt Trí tuệ hoàn hảo. Chính vì thế, Trí tuệ hoàn hảo này thì không thể bị cạn kiệt
Lúc này, Ngài Subhuti nghĩ: cấp bậc (station) mà Phật dạy thì không thể nghĩ bàn. Bây giờ ta sẽ hỏi Phật về cấp bậc này. Và ngài Subhuti hỏi Phật: Trí tuệ hoàn hảo thì, thưa Ngài, không bị cạn kiệt như thế nào?
Phật: Tức không thể bị tuyệt chủng (tận diệt?), cũng giống như không gian không thể bị tàn lụi, cũng giống như tất cả các pháp thì vô sinh, điều này cũng không thể bị cạn kiệt
Subhuti: Vậy làm sao mà Bồ Tát hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo này?
Phật: Nhờ qua sự không tận diệt của hình tướng, xúc, nhận định, phản xạ, ý thức. Qua sự không tận diệt của vô minh (ignorance), tác tạo nghiệp, của tên gọi và hình tướng, của trường (field) 6 giác quan, của tiếp xúc, ham cầu, tham đắm (grasping) và sự ràng buộc, của sự hình thành, sinh, mục (lão?), tử, đau buồn, than khóc, đau đớn, tuyệt vọng. Nhờ phương cách này mà Bồ Tát quan sát sự đồng sản sinh (coproduction) có điều kiện để mà từ bỏ hai thái cực. Người này quán sát như là không thấy ở đâu có sự bắt đầu, kết thúc hay ở giữa. Thấy được sự cùng sản sinh có điều kiện (To survey coproduction), người này có được sự biết toàn giác. Ở đây là sự không chấp nhận (non-acceptance), và vì vậy, không từ bỏ, không ràng buộc gắn kết, và vì vậy, không tách biệt, rời bỏ (non-detachment)
Vì Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo nhờ có sự hoàn thiện của sự không diệt tận, và quan sát sự cùng sản sinh có điều kiện thì không thể trụ tại cấp độ Thanh Văn hay Duyên Giác mà trụ tại sự toàn giác. Có một số Bồ Tát thoái chuyển Bodhi vì không lui tới những hoạt động suy nghĩ (tiến đến sự hoàn thiện của sự không diệt tận) và phương tiện thiện xảo, người này không biết Bồ Tát làm cách nào mà đi trên Trí tuệ hoàn hảo hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo nhờ sự hoàn thiện của sự không diệt tận, và cũng không biết bằng cách nào mà sự cùng sinh có điều kiện này được quán sát (surveyed) ở nơi Trí tuệ hoàn hảo này nhờ vào sự hoàn thiện của sự không diệt tận
Những Bồ Tát nào thoái chuyển Bodhi là do họ không lui tới phương tiện thiện xảo. Bồ Tát trong bất cứ thì gian nào không thoái chuyển Bodhi là do Trí tuệ hoàn hảo. Theo cách này, Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo nhờ hoàn thiện được sự không diệt tận. Bồ Tát quan sát sự cùng sinh có điều kiện thì không thấy có pháp nào được sinh ra mà không có nguyên do, và cũng không quan sát thấy bất cứ pháp nào như là trường tồn (thường còn), ổn định, vĩnh hằng, không bị thoái chuyển (reversal), và cũng không thấy bất cứ pháp nào như là người hành động hay là người cảm giác (doer or feeler)
Đây chính là cách nhìn nhận về sự cùng sinh có điều kiện mà Bồ Tát hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo nhờ sự hoàn thiện của việc không tận diệt , và đi trên Trí tuệ hoàn hảo, thấy được. Khi Bồ Tát, nhờ hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo qua việc hoàn thiện (consummate) sự không diệt tận, thấy được sự cùng sinh có điều kiện, thì lúc này người này không quan sát thấy hình tướng là một thực thể riêng biệt, có thực, và cũng vậy đối với các uẩn còn lại; cũng như vậy đối với vô minh, sự tạo tác nghiệp, vv cho đến sự mục nát và sự chết, đau buồn, than khóc, đau đớn, tuyệt vọng, và cũng không thấy sự thực là “đây là cõi Phật của tôi”, như là có thực, hay là “kia là 1cõi Phật nữa”. Và người cũng không thấy các pháp (mà nhờ đó 1 người có thể phân biệt được cõi Phật này hay cõi Phật kia) như là thực (real). Subhuti, đây chính là Trí tuệ hoàn hảo của Bồ Tát, vĩ nhân.    
Những lợi ích có được từ Trí tuệ hoàn hảo
Khi Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì ta nghĩ rằng ác Ma cảm thấy như bị trúng mũi tên sầu thảm, y như là một người vừa mới mất cha hay mẹ vậy
Subhuti: Vậy nỗi đau này chỉ ảnh hưởng tới 1 Ma thôi hay là ảnh hưởng tới nhiều Ma, cho đến tất cả Ma trong đại thiên thế giới?
Phật: Khi Bồ Tát trụ trong Trí tuệ hoàn hảo thì tất cả các Ma trong đại thiên thế giới đều cảm thấy như bị trúng mũi tên sầu thảm, và chúng không thể ngồi yên trên ngai vàng được. Vì tất cả thế giới với chư Thiên, nhân loại và A tu la, không ai có thể thâm nhập được vào Bồ Tát trụ tại Trí tuệ hoàn hảo, và họ không có chỗ để mà nắm giữ, đoạt lấy (take posession of), làm hại hay khiến người này thoái chuyển Bodhi. Thế nên bây giờ, Subhuti, Bồ Tát khát vọng muốn nhận biết và tiết lộ Bodhi cho chính mình và người khác như là đã ở trong vị trí, an trụ (as already in place), thì đi trên Trí tuệ hoàn hảo.
Ở Bồ Tát trụ trong Trí tuệ hoàn hảo thì Bố Thí ba la mật đã đạt đến sự phát triển hoàn thiện nhaart, và cũng vậy đối với các ba la mật khác như đạo hạnh (trì giới?), nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. Ở người như vậy thì các ba la mật này đã tiến đến sự phát triển hoàn hảo nhất, và cũng vậy đối với các loại phương tiện thiện xảo. Những gì được nghĩ như là , hay xem như là hành động của ma, khởi lên chống lại người đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì người này tự nhiên nhận biết là những việc này đang xảy ra, và họ lại loại bỏ chúng.
Bồ Tát muốn có được nhiều phương tiện thiện xảo thì đi trong Trí tuệ hoàn hảo, và phát triển như vậy. Ở bất cứ lúc nào Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo và không ngừng ước muốn đạt được Trí tuệ hoàn hảo, người này nghĩ đến (bring to mind) không chỉ các Phật ở trong vô số thế giới hệ, mà còn cả sự toàn giác đến từ Trí tuệ hoàn hảo
Người này lúc này nghĩ như vầy: Tôi cũng muốn đạt tới được pháp (dharma) mà các Phật đã đạt được!”. Chỉ trong 1 ngày, hay trong khoảng thời gian bằng cái búng tay, Bồ Tát trụ trong Trí tuệ hoàn hảo nghĩ như vậy và ước muốn như vậy. Nhưng Bồ tát trong 1 ngày, hay trong khoảng thời gian bằng cái búng tay ước muốn có được Trí tuệ hoàn hảo này thì có được công đức khác, và thực sự là nhận được luồng gió (winds) khác hẳn với Bồ Tát dựa vào 1 cơ sở, và lại bố thí trong vô số kiếp. Bồ Tát như vậy trụ tại sự không thoái chuyển khi luồng gió của người này đưa người này qua đến sự tiết lộ của (về) sự không tận diệt, và không có gì như vậy trở thành diệt tận, không chịu ảnh hưởng thời gian, vĩnh cửu, và sự nhận thức này sinh từ (borne through) bất cứ và tất cả mọi giới hạn của hiện thực, ngay cả cho đến pháp thân (dharmakaya) như là sự nhận biết thuần khiết và không bị phân biệt, giống như không gian.
Người như vầy nói về điều này như là chỉ lâu bằng cái búng tay, vì điều này không có sự bắt đầu và trong sự vô thời gian thì vượt trên mọi khoảnh khắc thời gian. Bồ tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo và trong 1 ngày, hay trong thời gian bằng cái búng tay, suy nghĩ như vầy thì ta biết người này được các Phật nghĩ đến. Không cần phải nói đến người mỗi ngày suy nghĩ như vậy. Vậy Bồ Tát được Phật nghĩ tới thì tương lai sẽ là thế nào? Chắc chắn là không gì khác ngoài Bodhi. Người như vầy sẽ không sinh vào những nơi khổ. Ta có thể biết người này sẽ sanh thiên, và ngay khi ở đây người này cũng không xa cách các Phật, và ở đây người này làm trưởng thành chúng sinh (mature beings). Đây chính là lợi ích và giá trị của Bồ tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo, và phát tâm như vậy, cho dù chỉ là một cái búng tay. Không cần phải nói tới người suy nghĩ như vậy mỗi ngày, ví dụ như Bồ Tát Gandhahastin, người sống thánh thiện nơi Đức Phật Akshobhya
Chương XXIX
Sự tiến đến
Hơn thế nữa, Subhuti, Bồ Tát tiến đến Trí tuệ hoàn hảo như sau: Qua sự không gắn kết và ràng buộc đối với bất cứ và tất cả các pháp. Từ sự không phân biệt của các pháp. Từ sự thực là các pháp không xảy ra. Và tin tưởng rằng “bất cứ và tất cả các pháp đều ngang nhau, giống nhau ở sự không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi”. Người này nhận biết nhờ trí tuệ bẩm sinh như Phật tính thuần khiết, tất cả các pháp thì không có tự thể (self), không gợi ý (về bản chất và dự định thật của pháp)
Ở sự tin tưởng rằng “bất cứ và tất cả những điều gì ta nói về pháp (nằm ngoài pháp), chỉ là ngôn từ, chỉ là cách diễn đạt thông thường- nhưng những cách diễn đạt này không nhắc đến những gì thực tế, và những cách diễn đạt này cũng không phải là cái gì đó thực. Ở sự tin tưởng (conviction) rằng “bất cứ và tất cả các pháp nằm ngoài sự diễn đạt và sự bàn luận, và những gì được nói đến hay diễn đạt thì không phải là pháp (it is not these which are expressed). Bồ Tát tiến tới Trí tuệ hoàn hảo nhờ từ sự vô tận của bất cứ và tất cả các pháp. Nhờ thâm nhập vào bất cứ và tất cả các pháp. Từ sự thật rằng bất cứ và tất cả các pháp thì hoàn toàn thuần khiết theo bản tính gốc của nó. Từ sự thật là bất cứ và tất cả các pháp thì vượt trên ngôn từ
Ngay cả những loại khác nhau của sự từ bỏ cũng ngang bằng nhau, vì bất cứ và tất cả các pháp thì không thể bị dừng lại. Sự thể như vậy thì ở bất cứ đâu cũng là sự giống nhau (sameness), vì bất cứ và tất cả các pháp thì đều nhận thức Nirvana. Ở sự tin tưởng rằng ”bất cứ và tất cả các pháp không đến, không đi; không thể được tạo ra, là vô sinh, vì sự vô sinh ra này là tuyệt đối”. Người như vầy không nhìn nhận, nhận định chính mình hay người khác. Tin tưởng như vầy “bất cứ và tất cả các pháp đều là A la hán, hoàn thoàn thuần khiết trong bản tính gốc của nó”. Và tin tưởng rằng “bất cứ và tất cả các pháp đặt xuống gánh nặng này, vì ban đầu không có gánh nặng nào mà pháp từng gánh lấy”. Người này tiến tới Trí tuệ hoàn hảo từ sự thật rằng bất cứ và tất cả các pháp thì không có nơi chốn hay vị trí xảy ra.
Vì hình tướng, cảm xúc, nhìn nhận, phản xạ, và ý thức thì không có nơi chốn (place) và vị trí, theo đúng như sự tồn tại của bản tính gốc, vốn là không có sự tồn tại. Người này vui mừng bởi sự dừng lại (cessation) của bất cứ và tất cả các pháp. Người này không cảm thấy hài lòng hay không hài lòng. Người này cũng không bị kích động, cũng không thản nhiên. Vì 5 uẩn, ở bản tính thật của chúng, ở sự tồn tại của chúng thì không bị kích động, cũng không thản nhiên. Tin tưởng là “bản tính gốc (của các pháp) thì thuần khiết hoàn toàn. Tin tưởng là “tất cả các pháp thì không ràng buộc, tự do không bị ràng buộc và cả sự không ràng buộc”. Tin tưởng là “bất cứ và tất cả các pháp thì đều là Bodhi, vì như chúng được hiểu ngang bằng nhau bởi Phật-trí (equally understood)
Từ sự vắng lặng, vô dấu hiệu và không ước muốn của tất cả các pháp. Trong sự nhận biết rằng “bất cứ và tất cả các pháp đều là liều thuốc chữa bệnh, như được quản lý, khống chế bởi sự thân thiện và đồng tình (accord)”. Theo sự tin tưởng rằng “tất cả các pháp trụ tại sự thân thiện, trong từ bi, trong niềm vui đồng cảm, trong sự công bằng”. Và tin tưởng rằng “tất cả các pháp được nhận biết qua tinh thần chung (phổ quát) và tối thượng này, rằng không có sai lầm nào khởi lên, vì trong sự tồn tại thiết yếu, cốt lõi (in essential being), tất cả sự sai lầm đều không được sản sinh”. Trong sự tin tưởng rằng “tất cả các pháp đều không hứa hẹn, hy vọng, cũng như không thù địch”
Người này tiến đến sự vô biên của Trí tuệ hoàn hảo giống như là tiến đến với sự vô biên của biển cả; như là sự nhiều màu sắc của núi Tu di. Người này tiến tới sự vô biên của Trí tuệ hoàn hảo: từ sự vô biên của hình tướng, cảm xúc, nhìn nhận, phản xạ, ý thức; từ sự vô biên vô số tia sắc chiếu từ mặt trời; từ sự vô biên của không gian; từ sự vô biên của những thành tựu (achievement) sau cùng của bất cứ và tất cả các pháp của Phật; từ sự vô biên của việc trang bị cho vô số chúng sinh ở bất cứ thế giới nào công đức và trí biết (cognition); từ sự vô biên của nguyên tố đất; và cũng như vậy đối với nguyên tố nước, lửa, gió, không gian và ý thức
Người này tiến đến sự không giới hạn của Trí tuệ hoàn hảo từ sự không giới hạn của tất cả các pháp tốt và không tốt (unwholesome), từ sự không giới hạn của tất cả các pháp
Người này tiến đến sự vô tận của Trí tuệ hoàn hảo từ sự đạt được sự vô tận của thiền định về tất cả các pháp, từ sự vô tận của tất cả các Phật pháp, từ sự vô tận của tất cả các pháp, từ sự vô tận của sự vắng lặng, từ sự vô tận của suy nghĩ và các bộ phận (constituent), từ sự vô tận của suy nghĩ và hành động
Người này tiến đến vô lượng của Trí tuệ hoàn hảo từ sự vô lượng của tất cả các pháp tốt và không tốt. Người này tiến tới được sự tuyên bố dứt khoát của Trí tuệ hoàn hảo qua (giống như) sự hống của sư tử hống 
Người này tiến đến nhận biết rằng Trí tuệ hoàn hảo thì không thể bị lay động bởi các nhân tố bên ngoài dựa từ sự thật rằng bất cứ và tất cả các pháp không thể bị lay động bởi các nguyên tố bên ngoài. Vì các uẩn thì như biển cả. Các uẩn thì như vòm trời, như sự sáng chói và muôn màu của núi Tu di; như sự sản sinh ánh sáng từ đĩa mặt trời; không bị giới hạn như âm thanh; như toàn thể thế giới với các chúng sinh; vô tận như sự hoàn thiện (achievement) cuối cùng của pháp của một Phật; vô biên như sự trang bị công đức và trí tuệ nhận biết cho tất cả chúng sinh trong mọi thế giới; như là mặt đất, như nước, lửa, khí, không gian và ý thức (consciousness); nó không có bất cứ giới hạn cụ thể nào như (like) sự tập hợp của tất cả các pháp tốt và không tốt; nó không có giới hạn giống như sự tập hợp của tất cả các pháp. Hình tướng là ra đi (tới Phật vị), sự tự thể (own being) của hình tướng là Phật-pháp, vốn cốt lõi là Sự thể như vậy của hình tướng, vv cho đến ý thức là sự rời đi, tự thể tồn tại của ý thức là Phật-pháp, vốn cốt lõi là Sự thể như vậy của ý thức
Hình tướng, cũng như mỗi một uẩn thì vô tận của bản chất thật của bất cứ và tất cả các pháp; Sự thể như vậy thì vắng lặng, vô tận bản chất thật (của sự việc); sự vô tận của suy nghĩ và các thành phần cấu tạo nên; và chỉ có vẻ như khơi dậy suy nghĩ và hành động, và (có vẻ như) được xem (nắm bắt) như là tốt (lành mạnh) hay là không tốt cho đến khi ta không còn nắm bắt nữa (Suchness as empty, boundless true nature [of things]; boundlessness of thought and constituents; which merely appears to give rise to thought and action; which is apprehended as wholesome or unwholesome until non-apprehension). Đây chính như sư tử hống, và không thể được lay chuyển bởi yếu tố bên ngoài

Theo cách này, Bồ tát tiến tới Trí tuệ hoàn hảo. Khi Bồ Tát tiến tới Trí tuệ hoàn hảo theo cách này, nhận thấy nó, thâm nhập vào nó, hiểu được, suy xét, nghiên cứu, tra xét (investigate) và phát triển nó, với hành động của tâm từ bỏ bất cứ và tất cả sự gian dối, giả dối (deception), bất cứ và tất cả ý nghĩ tự cao, sự đề cao bản thân, bất cứ và tất cả sự lười biếng, hạ thấp người khác, ý nghĩ về “tôi” (self), ý nghĩ sự tồn tại, lợi, danh, 5 chướng nạn, ghen tị và nhỏ mọn, bất cứ và tất cả sự dao động- điều này không khó cho người đạt được sự hoàn hảo của tất cả các đức tính, (sự hoàn hảo của) cõi Phật và pháp tối thượng của Phật.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét