Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

30-32

Chương XXX
Sadaprarudita
Hơn thế nữa, Subhuti, ta cần phải tìm kiếm Trí tuệ hoàn hảo như Bồ Tát Sadaprarudita, hiện đang sống cuộc sống thánh thiện trước sự hiện diện của Đức Phật Brishmagarjitanirghoshasvara.
Subhuti: Làm sao mà Bồ Tát Sadaprarudita tìm kiếm Trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Đầu tiên là Bồ Tát Sadaprarudita tìm kiếm Trí tuệ hoàn hảo theo cách là không tiếc thân mạng, và danh, lợi, vinh quang ông ấy cũng không thích. Trong nơi vắng vẻ của một khu rừng xa xôi, có một giọng nói trong không trung nói với ông ta:
“Thiện nam tử, ở hướng Đông, hãy đến lắng nghe Trí tuệ hoàn hảo! Và trên đường ông đi đừng màng tới sự mệt nhọc của thân thể, đừng bị khuất phục bởi sự mệt mỏi, đừng quan tâm đến ăn uống, ngày đêm, nực hay hàn (lạnh). Đừng dự định về những việc trong hay ngoài (outward things). Đừng nhìn sang trái hay phải, Nam, Đông, Tây, Bắc, trên hay dưới, hay ở bất cứ phương hướng nào. Đừng bị rung động bởi tự bản thân hay tính cá thể (individuality), cũng không bởi hình tướng hay các uẩn khác. Vì những người bị lay động bởi những sự việc này thì thoái chuyển Phật-pháp. Khi có ai thoái chuyển Phật-pháp thì sẽ luân hồi trong sinh tử. Và khi luân hồi trong sinh tử thì không thể đi trên Trí tuệ hoàn hảo, không thể đạt được đến Trí tuệ hoàn hảo”
Sadaprarudita nói với giọng nói: Từ thời điểm này, tôi sẽ như vậy và sẽ làm như vậy. Vì tôi khát muốn chỉ ra ánh sáng cho tất cả chúng sinh, vì tôi muốn đem lại pháp của Phật
Tiếng nói trả lời: Thiện nam tử, nói hay lắm!
Bồ Tát Sadaprarudita lại lắng nghe theo giọng nói, và ngài nghe như vầy:
“Thiện nam tử, sự tìm kiếm Trí tuệ hoàn hảo này diễn ra khi ông có được niềm tin tưởng rằng tất cả các pháp thì vắng lặng, là trống, không dấu hiệu, không ước muốn. Đừng bị ảnh hưởng bởi dấu hiệu, sự tồn tại và tà kiến ở bất cứ đâu, hay ở bất cứ thời gian nào ở đây có xuất hiện chúng sinh (being), hay đang có chúng sinh xuất hiện. Đừng để những suy nghĩ của ác tri thức ảnh hưởng. Những suy nghĩ của thiện tri thức thì hãy hướng đến, yêu mến và tôn thờ. Những người này thuyết pháp, và dạy rằng “tất cả các pháp thì vắng lặng, không dấu hiệu, không ước muốn, không được sản sinh, không bị dừng lại và không tồn tại”
Khi ông tiến triển như vầy, thì ông đang học và áp dụng Trí tuệ hoàn hảo hoặc từ một cuốn sách, sự trải nghiệm trực tiếp, hay từ miệng người nói pháp. Những người mà ông đến gặp để nghe Trí tuệ hoàn hảo thì ông hãy cư xử như đối với Thầy, hãy biết ơn và nhớ ơn, và nghĩ như vầy: “Đây là thiện tri thức của tôi (bạn tốt). Khi tôi nghe được Trí tuệ hoàn hảo từ người này, tôi sẽ dần đến được sự bất thoái chuyển Bodhi, tôi sẽ đến gần các Phật hơn, và sẽ được sanh ở cõi Phật, nơi mà không thiếu mất Phật, và tránh được sự tái sinh trong hoàn cảnh  không may, và thành tựu được sự tái sinh may mắn!” Khi ông nghĩ đến những lợi ích như vậy thì chắc chắn ông sẽ đối xử với vị Tăng thuyết pháp ấy như là Thầy. Đừng theo người này vì ham cầu lợi, mà phải vì lòng yêu pháp, kính trọng pháp, và lợi ích cho bất cứ và tất cả chúng sinh
Cũng như vậy, hãy nhìn thấu qua những hành động được nghĩ hay xem như là Ma làm (tác động), vì Ma luôn xuất hiện, và có vẻ như nói rằng thầy của ông hướng tới, thích thú và trân trọng những gì mà mình thấy, nghe, ngửi, nếm, hay sờ, mặc dù thực tế người này làm như vậy từ phương tiện thiện xảo, và đã thực sự vượt lên khỏi những điều này. Tại đây và bây giờ, đừng mất lòng tin vào người thầy, mà hãy tự nói như vầy: “Tôi thật không biết phương tiện thiện xảo như thầy của tôi tự nhiên biết. Thầy hướng đến, thích thú và tôn trọng những pháp như vậy để mà chỉ ra đường lối tu luyện (discipline) cho chúng sinh, để họ có được những căn lành. Vì không có sự gắn kết, ràng buộc với chỗ dựa khách quan nào tồn tại cho Bồ Tát hoặc ở bên trong của Bồ Tát. Lúc này, hãy suy tư về thực tế thật của pháp, nói cách khác là tất cả các pháp đều không có phiền não hay sự được làm thanh tịnh (purification). Vì tất cả các pháp đều trống rỗng, không có tự thể, không thể “có” đặc tính nào có vẻ như là thuộc tính của một chúng sinh, pháp không thể “có” cuộc sống, không có tính cá thể, không có cá tính (personality), vì pháp là như huyễn hóa, như giấc mơ, như tiếng vọng, như một hình ảnh phản xạ. Và như vậy, khi ông suy nghĩ về sự thật của các pháp, và đi theo những gì được nói đến về Pháp, và ông đi trong, và như Trí tuệ hoàn hảo. Tuy vậy hãy cẩn thận nhìn nhận một hành động nữa của Ma. Vì nếu ông có thể bị thất vọng vì những gì người thuyết pháp nói, nhưng đừng vì vậy mà chán ghét Trí tuệ hoàn hảo; nhưng chỉ với tâm cầu pháp, và lòng tôn trọng pháp mà ông theo vị Tăng nói pháp ấy”.
Khi tiếp nhận được sự chỉ dẫn từ giọng nói này, Bồ Tát Sadaprarudita đi về hướng Đông. Không lâu sau, ông chợt nhớ chưa hỏi giọng nói ông cần đi xa tới đâu. Ông đứng im như vầy, than khóc, buồn thảm và rên rỉ. Trong 7 ngày, ông đứng tại chỗ này để chờ được bảo cần phải đi xa bao nhiêu để có thể nghe được Trí tuệ hoàn hảo, và trong suốt thời gian này, ông không để tâm đến chuyện gì khác, và không ăn, chỉ kính lễ đối với Trí tuệ hoàn hảo, chờ được bảo...ông cần phải đi bao xa và làm sao để làm được điều này.
Subhuti, bất cứ ai nếu mất đi đứa con duy nhất của họ thì sẽ rất buồn và không vui, và chỉ có thể nghĩ đến một điều, đó là đứa trẻ và nỗi buồn cảm nhận từ điều này. Cũng giống như vậy, lúc này Bồ Tát Sadaprarudita chỉ có thể, tại lúc này không thể nghĩ điều gì khác ngoài “khi nào thì tôi sẽ được nghe Trí tuệ hoàn hảo này?”
Miêu tả Gandhvati, và cuộc đời của Dharmodgata
Khi Sadaprarudita đã âu sầu và mòn mỏi như vậy, một âm thanh, hình tướng của Phật liền đứng dậy trước mặt ông, chấp thuận cho ông và nói: “Nói hay lắm, thiện nam tử! Các Phật trong 3 thời gian, khi còn là Bồ Tát giống như ông đây, cũng tìm kiếm Trí tuệ hoàn hảo theo tinh thần giống như ông bây giờ tìm kiếm như vậy. Cũng trong tinh thần cường tráng, quyết tâm, nhiệt tình và hăng say như vậy- ông hãy hướng đến phía Đông! Cách đây 500 dặm, có thành phố tên Gandhavati. Thành phố được làm từ 7 chất liệu quý báu, dài 12 dặm và rộng 12 dặm, bao quanh bởi 7 tường thành, 7 hào bao quanh và 7 hang cây cọ.
Thành phố rất giàu có và hưng thịnh, an toàn không bị tấn công, có nhiều lương thực và nhiều thú vật cũng như các sinh vật khác (beings). 500 hàng cửa tiệm chạy dọc xuyên thành phố từ đầu này sang đến đầu kia, trông đẹp như tranh vẽ màu, được sắp đặt theo thứ tự đều đặn, và ở giữa 2 nhà có chỗ được bố trí hợp lý, và hành lang được dựng tạo lên, theo thứ tự dành cho xe được súc vật kéo, cho kiệu và cho người đi bộ, thế nên có nhiều chỗ để họ đi.
Tường thành xung quanh thành phố được làm từ 7 chất liệu báu. Và mái đầu tường được xây dựng chắc chắn, lần chênh dốc xuống Kim hà (dòng sông hoàng kim) Jambu. Và ở mỗi đầu tường có trồng một cây, làm từ 7 chất liệu báu, có đầy trái cũng làm từ 7 chất liệu báu. Có một mạng lưới chuông nhỏ được gắn vào dây, dăng xung quanh toàn thành phố. Khi có gió lay động thì các chuông nhỏ phát ra âm thanh dễ chịu, vui thích và dễ nghe, giống như âm thanh phát ra từ 5 nhạc cụ được chơi hòa âm bởi Gandharvas (Càn thát bà?), giỏi kỹ nhạc. Và âm thanh này khiến chúng sinh giải trí, thưởng  thức và làm thích thú. Các hào xung quanh thành phố thì đầy nước chảy nhẹ nhàng, không quá nóng, cũng không quá lạnh.
Những chiếc thuyền trên sông thì cũng lộng lẫy với 7 chất liệu báu, trông rất thích mắt, và những người được trú tại đây, để giải trí, thưởng thức và làm cho thích thú thì chính là nhờ việc làm trong quá khứ. Mặt nước bất cứ ở đâu cũng trải đầy hoa sen xanh (dương), hoa sen hồng, hoa sen trắng, và cả những hoa tuyệt sắc, thơm ngát như vậy. Ở đây không có hoa nào trong đại thiên thế giới có mà (ở đây) không có.
Xung quanh thành phố này có 500 công viên, trông rất đẹp, lộng lẫy với đủ 7 báu. Mỗi công viên có 5 lần 5 trăm hồ sen lớn, có đầy hoa đẹp, mỗi bông lớn bằng bánh xe, thơm ngát- xanh, vàng, đỏ và trắng. Tiếng gọi của con ngỗng, cò, vị, và các loài chim khác vang đầy xung quanh hồ. Và sự hiện diện của những công viên này, mà không ai cho là của riêng của mình thì chính là phần thưởng choh những hoạt động trong quá khứ của họ, vì họ đã đi trong một thời gian dài nơi Trí tuệ hoàn hảo, tâm của họ tin tưởng, trung thành dâng hiến (devoted) tới Người dẫn đường cho (của) Phật, và luông muốn lắng nghe Trí tuệ hoàn hảo và thông hiểu Trí tuệ hoàn hảo, và trong một thời gian dài, những người này chú tâm vào pháp sâu và (pháp) thực sự không thể dò được.
Và tại đây, ở thành phố Gandhavati, tại ngã tư đường là nhà ở của Bồ Tát Dharmodgata- đường kính dài 1 dặm, với đủ 7 báu, nhìn rất đẹp, được bao quanh bởi 7 tường thành và 7 hàng cây cỏ. Ở đây có 4 công viên xung quanh nhà, và để cho những người ở đây thưởng ngoạn. Chúng được gọi là Nityapramudita, Asoka, Sokavigata và Pushpacitra. Mỗi công viên có 7 hồ sen, tên là Bhadra, Bhadrottama, Nandi, Nandottama, Kshama, Kshamottama, Niyata và Avivaha. Một bên của hồ làm bằng vàng, bên thứ hai bằng bạc, thứ ba bằng vaidurya, cuối cùng là tinh thể (crystal). Mặt đất ở đáy hồ làm bằng thạch anh, với cát vàng ở trên. Mỗi hồ có 8 cầu thang dẫn lên, mỗi bậc than được trang trí bằng đủ  thứ trang sức khác nhau. Ở khoảng cách giữa các bậc thang, ở trong Kim hà Jambu, có trồng một cây (plaintain- một loại thảo dược thuộc họ chuối). Ở hồ chứa đầy các hoa mọc trên nước, và không gian phía trên thì rộn tiếng chim. Vòng quanh những hồ này có nhiều cây đơm hoa, và khi có ngọn gió đưa qua thì những bông hoa rớt xuống mặt hồ. Nước trong hồ thì có hương, sắc, vị và cảm giác như chiên đàn (sandalwood)
“Ở trong tòa nhà này, Bồ Tát Dharmodgata cư ngụ, cùng với đoàn tùy tùng, giữa 68000 phụ nữ. Bồ Tát ở đây thưởng thức, giải trí và tiêu khiển (divert), Ngài cảm và nếm 5 thứ dục. Tất cả những cư dân thành phố, nam lẫn nữ, đều thưởng thức, giải trí và tiêu khiển, họ luôn có được niềm vui từ các công viên và trên mặt hồ, cùng nếm 5 thứ dục. Tuy vậy, Bồ Tát Dharmodgata và tùy tùng chỉ thưởng thức, giải trí và tiêu khiển trong một thời gian nhất định, và bây giờ Ngài tuyên thuyết Trí tuệ hoàn hảo. Và cư dân thành phố xây một giảng đàn cho Bồ Tát Dharmodgata ở giữa quảng trường thành phố. Giảng đàn có đế bằng vàng, nệm bằng bông trải lên trên, và che lại bằng gỗ, một tấm nệm và vải lụa được đặt lên trên. Ở trên không trung cao nửa Kos, ở đây có 1cái lều chiếu sáng với trân châu, đều đặn và chắc chắn. Ở xung quanh giảng đàn có nhiều hoa ngũ sắc, được rải và trải đều, và chính giảng đàn cũng có mùi thơm từ nhiều hương thơm. Tâm của Ngài Dharmodgata thì thật thuần khiết, và những người nghe pháp của ông cũng rất mực kính trọng pháp.
An tọa tại giảng đàn này, Bồ Tát Dhramodgata diễn giảng Trí tuệ hoàn hảo. Những thần dân của thành phố lắng nghe pháp với tất cả lòng kính trọng, tin tưởng và có đức tin vào những việc đáng tin, tâm được nâng lên tới đức tin. Hơn nữa có hàng trăm, hàng ngàn, và trăm ngàn chúng sinh, chư thiên và người, đều tập trung tại đây để lắng nghe pháp. Một số trong những người này giải thích Trí tuệ hoàn hảo, một số tụng, lại biên chép, một số lại thực hành theo Trí tuệ hoàn hảo với sự quan tâm, chú ý khôn ngoan và khéo léo. Tất cả những người như vầy không còn rơi xuống tình trạng khốn khổ, và đều không thoái chuyển Bodhi. Thiện nam tử, hãy đi đến với Bồ Tát Dharmodgata! Hãy lắng nghe Trí tuệ hoàn hảo từ ông ta. Vì Ngài sẽ là thiện tri thức của ông về lâu dài, sẽ triệu ông tới, và sẽ khuyến khích, khích lệ ông nhận biết được Bodhi. Ngài cũng đã từng, trong 3 thời, tìm kiếm Trí tuệ hoàn hảo giống như ông đang tìm bây giờ. Thế nên, thiện nam tử, hãy cứ tiếp tục đi, không quản ngày đêm, tập trung không sao nhãng vào công việc bất tận này (unending), chính phước lành bất tận này mà chúng ta tự nhiên học được rằng thể không chấp nhận như là một cơ sở, cũng không chán ghét như là một phương tiện đến một kết thúc nào đó! Ông sẽ chóng nghe được Trí tuệ hoàn hảo!”
Khi Bồ Tát Sadaprarudita nghe được điều này, ông rất vui mừng, mãn nguyện, hân hoan. Một người bị mũi tên độc bắn trúng không thể nghĩ tới điều gì khác ngoài suy nghĩ: “Tôi có thể tìm thầy thuốc ở đâu, một bác sĩ, người có thê rút mũi tên này ra, và giải thoát tôi khỏi khổ nạn này”. Cũng như vậy, Bồ Tát Sadaprarudita trong lúc này không nghĩ tới pháp nào khác ngoài:
“Khi tôi nghe được Trí tuệ hoàn hảo từ thiện nam tử này, khi nghe được pháp này, tôi từ bỏ mọi quan tâm đến bất kỳ cơ sở nào.” Không rời khỏi chỗ này, Sadaprarudita nghe được Bồ Tát Dharmodgata diễn thuyết Trí tuệ hoàn hảo.
Bản liệt kê và sự quan trọng của việc tập trung (thiền định?)
Chính vì lý do này, ông có được nhìn nhận mà không dựa vào pháp nào cả, ngay cả không dựa vào sự nhìn nhận nữa. Và ở trước mặt ông có nhiều cánh cửa của sự tập trung.. Đây là tên của các sự tập trung này:
“Sự nhìn nhận (khảo sát) sự tự thể (this surveys own-being) của bất cứ và tất cả các Pháp”, “Sự không nắm bắt lấy tự thể của bất cứ và tất cả các Pháp”, “Sự không khác nhau, phân biệt của bất cứ và tất cả các Pháp”, “Khán giả (spectator) của sự bất biến của bất cứ và tất cả các Pháp”, “Người khai sáng, rọi sáng bất cứ và tất cả các Pháp”, “Từ bất cứ và tất cả các Pháp, bóng tối mất đi”, “Sự việc này phá tan mọi sự biết (cognition) của bất cứ và tất cả các Pháp”, “Việc này quăng, tung (toss about) bất cứ và tất cả các Pháp”, “Sự không nắm bắt của bất cứ và tất cả các Pháp”, “Trang sức bằng hoa”, “Tại thân thể này hoàn thiện bất cứ và tất cả các Pháp”, “Đã từ bỏ ảo tưởng”, “Gọi ra (call forth) hình ảnh phản chiếu từ gương”, “Gọi ra âm thanh của tất cả chúng sinh”, “Không bụi bẩn”, “Làm tất cả chúng sinh vui mừng”, “Người đi theo tiếng nói (âm thanh) của tất cả chúng sinh, nhờ từ phương tiện thiện xảo”, “Sự hoàn thiện của tất cả từ, ngữ và tiếng nói”, “Trạng thái có được từ sự không cảm thấy cứng nhắc”, “Không thể diễn tả được nơi bản tính cốt yếu”, “Nhận thức được sự giải thoát không chướng ngại”, “được vua thăm viếng”, “Phân tích văn phạm của lời nói thành từ và chữ”, “Cái nhìn sâu sắc về bất cứ và tất cả các Pháp”, “Sự vượt trên lĩnh vực của bất cứ và tất cả các Pháp”, “Giới hạn không chướng ngại của bất cứ và tất cả các Pháp”, “Được tạo thành như bầu trời”, “Như sấm sét”, “Đức vua đã đến gần”, “vị vua không có đối thủ”, “Chiến thắng”, “Mắt không thể rời”, “Trụ tại nguyên tố này của pháp”, “Người ban phát sự an ủi”, “hống như sư tử hống”, “Không có thế giới để chúng sinh tái sinh”, “Không cấu bẩn”, “Không phiền não”, “dàng liên hoa”, “Sự loại bỏ do dự”, “Người đi theo bất cứ và tất cả các sự xuất sắc thực chất, chắc chắn”, “Trụ tại sự vượt trên, siêu việt của bất cứ và tất cả các Pháp”, “Thành tựu siêu trí thức, năng lực và cơ sở tự tin”, “Người xuyên thấu bất cứ và tất cả các Pháp”, “Con dấu của sự ngừng lại (quay đi?) khỏi sự trở thành về mặt bất cứ và tất cả các Pháp”, “biển cả mà ở trong đó bất cứ và tất cả các Pháp mất đi bất cứ sự trở thành”, “Người khán giả, nhìn nhận bất cứ và tất cả các Pháp không có phân biệt (các pháp)”, “Sự việc này rời khỏi khu rừng của bất cứ và tất cả các sự xem xét (views) và hành động”, “không bóng tối”, “Không có dấu hiệu của bất cứ và tất cả các Pháp”, Tự tại khỏi bất cứ và tất cả sự ràng buộc”, “Không có dấu vết của sự lười biếng”, “Việc này rọi ánh sáng vào pháp sâu”, “Được tạo hình như núi Tu di”, “không thể chống cự”, “Việc này (This) phá vỡ những gì được xem như là đạo quân Ma”, “Không thiên hướng (yêu thích) bất cứ gì trong tam thế giới”, “Phát ra tia sáng”, “Sự nhìn thấy Như Lai”, “Người nhìn thấy tất cả các Như Lai”.
Khi trụ tại những thiền định này, Bồ Tát thấy được chư Phật ở vô tận thế giới hệ ở 10 phương, khi các Phật diễn giải Trí tuệ hoàn hảo cho các Bồ Tát. Và các Phật cũng khen ngợi và an ủi Bồ Tát, nói với Bồ Tát thế này:
Chúng tôi trong 3 thời khi còn làm Bồ Tát cũng tìm kiếm Trí tuệ hoàn hảo theo giống cách này. Chúng tôi khi tìm kiếm cũng thành tựu được những thiền định như ông vừa đạt được. Ngay cả khi đạt được rồi chúng tôi cũng đi trên con đường của chúng tôi, thành lập (trụ) tại và truyền Trí tuệ hoàn hảo và pháp bất thoái chuyển của Phật. Nhưng khi chúng tôi đọc bản chất cốt yếu gốc và tìm kiếm tự thể của những thiền định này, chúng tôi không thấy bất cứ pháp thực (see any real dharma enter into these) nào nhập vào đây, hay xuất hiện từ đây, đi đến Bodhi, hay biết được Bodhi. Sự vắng mặt của những tưởng tượng (imaginings) về bất cứ pháp nào…đây chính là Trí tuệ hoàn hảo. Khi chúng tôi trụ lại kiên cố tại sự vắng mặt của bất cứ và tất cả những tưởng tượng tự đại, thì chúng tôi tự nhiên thấy được (reveal our bodies of golden color) thân sắc màu vàng kim, và 32 tướng của Phật, 80 đặc điểm khác (accessory), và hào quang lộng lẫy xung quanh chúng tôi, và biết được trí biết không thể tưởng tượng và vô thượng của Phật, trí tuệ của Phật này, sự tập trung (thiền định?) tối thượng của Phật, và sự hoàn hảo của tất cả các pháp và giá trị của Phật, và đơn giản nói tổng quát là bản tính của Phật. Ngay cả các Phật cũng không thể nắm bắt lấy được bất cứ sự đo lường nào, cũng không thể định ra được giới hạn, biên giới nào, của sự hoàn hảo của các giá trị- không cần phải nói tới các Thanh Văn và Duyên Giác. Tại đây và bây giờ, hãy hoàn toàn nghĩ đến lòng tôn trọng cho các pháp này của Phật, để mà ông càng khao khát tới những pháp này, để ông càng hăng say với những pháp này. Biết được Bodhi thì không khó đối với những người khao khát và hang say tới đây. Vì thiện tri thức thì luôn luôn đánh thức sự tôn trọng và yêu thích cực độ tới các pháp, và chắc chắn là sẽ (trong thanh bình) giữ cho ông tin tưởng vào pháp như vậy. Vì chính nhờ chúng tôi có được thiện tri thức mà Bồ Tát nhanh chóng nhận biết và biết được Bodhi
Sadaprarudita hỏi các chư Như Lai: Vậy ai là thiện tri thức?
Một Phật trả lời: Bồ Tát Dharmodgata đã lâu làm ông trưởng thành đối với Bodhi vô thượng, Ngài đã giữ gìn, ủng hộ ông, là sự tiến động cho sự hoàn thiện Trí tuệ hoàn hảo của ông, tại phương tiện thiện xảo, và các pháp của Phật. Chính Bồ Tát đã gia trì cho ông, và nhờ hành động này mà ông đã tôn trọng và biết ơn Bồ Tát, và luôn nhớ tới những gì Bồ Tát đã làm cho ông. Thiện nam tử, nếu ông trong 1 kiếp, hay 2 kiếp, hay tram ngàn kiếp hay hơn nữa, cõng Bồ Tát Dharmodgata như bang trên đầu, cung cấp cho ngài bất cứ thứ gì làm ngài vui, và hiến đến cho ngài với đủ thứ hình tướng, âm thanh, mùi, vị, và xúc nhiều như trong tam thiên đại thiên thế giới- ngay cả khi vậy, ông cũng không thể trả ơn được những gì thiện nam tử này đã giúp ông. Điều này xảy ra nhờ thần lực của ngài vì ông đã đạt được những thiền định nay, và nghe được Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo, và rằng ông đã có được Trí tuệ hoàn hảo này
Sadaprarudita và con gái người lái buôn
Khi những vị Phật này an ủi Bồ Tát Sadaprarudita, các Phật liền biến mất. Nhưng Sadaprarudita xuất khỏi thiền định và tự hỏi “Các Phật từ đâu đến, và đi đến đâu?” Vì ông không còn thấy các Phật nên ông lo lắng và mòn mỏi chờ đợi. Và ông tự nghĩ: “Bồ Tát thánh thiện Dharmodgata đã có được những đà la ni ở sự nhận biết và nhận thức, và cũng như vậy, Ngài có được 5 siêu trí tuệ, và Ngài đã hoàn thành phận sự nơi các Phật ở quá khứ, Ngài là người bảo trợ và là thiện tri thức của tôi, và đã từ lâu đã làm lợi ích cho tôi. Khi tôi đến gặp Ngài, sẽ nhất định hỏi Ngài về vấn đề này, Phật đến từ đâu và đi đến đâu”. Sadaprarudita tại đây nuôi dưỡng lòng yêu thích và sự tự tin, sự kính mến và tôn trọng đối với Bồ Tát Dharmodgata. Ngài lại nghĩ: “Tôi sẽ đến với Bồ Tát Dharmodgata mang theo lễ vật gì? Nhưng tôi lại nghèo, và không có vật gì giá trị để có thể tỏ long tôn trọng và kính mến Ngài. Thật không thích đáng nếu như tôi đến mà không mang theo gì cả. Nhưng tôi lại nghèo, và điều này khiến tôi buồn và hối tiếc”.
Bồ Tát Sadaprarudita khởi hành và trên đường đi thì có những cảm xúc như vậy, có những thái độ tôn trọng như vậy. Theo đường đi, ông đến được 1 thị trấn, đến giữa khu chợ, và quyết định tự bán thân, và từ tiền công này sẽ dung để tôn kính hiến cúng Bồ Tát Dharmodgata. “Trong đêm tối dài dằng dẳng của thời quá khứ, ở trong vòng sinh tử vô lượng này, hang ngàn thân của tôi đã bị tan vỡ, lãng phí, phá hủy, bị bán đi, lần này cũng như lần khác. Tôi đã trải nghiệm vô lượng đau khổ trong những địa ngục vì ham dục lạc, và đều vì những dục lạc này mà chưa từng vì pháp như vầy, chưa bao giờ để tôn kính, hiến cũng những người như vầy”
Sadaprarudita liền đến vào giữa chợ, lớn tiếng nói rằng: “Ai muốn tôi? Ai muốn tôi? Ai muốn mua tôi?”
Lúc này, ác Ma được nghĩ, và xem như là nghĩ như vầy: “Ta phải cản trở Bồ Tát Sadaprarudita. Vì nếu ông ta bán mình thành công vì lo lắng lien quan đến pháp, và lại đi tới tôn kính Bồ Tát Dharmodgata, và hỏi ông ta về Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo, chỉ như làm cách nào Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo nhận biết được Bodhi, ông ta chắc chắn với được tới biển cả của tri thức thiêng liêng này, và các Ma và quyến thuộc sẽ không thâm nhập vào được người này, lại tiến tới được sự hoàn hảo của tất cả các giá trị, khi ông ta làm việc vì niềm hạnh phúc của chúng sinh, và cướp đi những người thuộc về ta, và lại lấy đi những người như vậy của ta khi ông ta biết được Bodhi  
Ác ma được biết đến hay xem như là đã khiến tất cả Brahmin và người tại gia, làm cho họ không nghe được giọng nói của Sadaprarudita. Khi Sadaprarudita không tìm được người mua mình, ông đến một bên và kêu la, chảy nước mắt, nói rằng: “Trời ơi, như vầy thật khó cho tôi, vì chúng tôi không thể tìm được người mua ngay cả thân của tôi, để có thể bán thân này, và tôn kính Bồ Tát Dharmodgata (tên Sadaprarudita nghĩa là “nước mắt liên tục”)
Lúc này, Đế Thích, nghĩ như vầy: “Ta hãy đo lường Bồ Tát Sadaprarudita. Để xem ông ta có chủ ý chân thành, muốn từ bỏ thân mình để cầu pháp hay là không?”. Sakra liền hiện ra thân người đàn ông tre, tiến đến Bồ Tát Sadaprarudita và nói: Thiện nam tử, tại sao ông lại đứng đây buồn bã, mòn mỏi và khóc lóc như thế này?” Sadaprarudita liền trả lời: “Tôi muốn tự bán thân mình, nhưng không có ai để mua”. Sakra, dưới hình dạng của chàng thanh niên, liền nói: “Ông muốn bán tự thân là vì điều gì?” Sadaprarudita liền trả lời: “Từ lòng mến Pháp tôi muốn bán thân này, để thờ phụng Pháp, và tôn kính Bồ Tát Dharmodgata. Nhưng khi không thấy ai muốn mua thân này của tôi. Tôi tự nghĩ, trời, mình đúng là người thiếu kém căn lành rất nhiều”. Chàng thanh niên liền nói: “Tôi tự bản thân không cần một người đàn ông. Nhưng cha tôi cần tế lễ. Vì vậy, tôi cần trái tim, máu và tủy của ông. Nếu ông cho tôi những thứ này thì tôi sẽ trả tiền cho ông”. Lúc này Sadaprarudita liền nghĩ: “Ta thật dễ dàng có được thứ ta mong cầu. Bây giờ ta biết thân ta thì đủ hoàn hảo để nhận biết được Trí tuệ hoàn hảo, phương tiện thiện xảo và pháp của Phật, vì ta đã tìm thấy chàng thanh niên này muốn mua tim, máu và tủy”. Lúc tâm của Bồ Tát tràn đầy vui sướng, và sẵn sàng, Bồ Tát nói: “Tôi sẽ cho ông cơ thể của tôi, vì ông cần đến nó!” Chàng thanh niên hỏi: “Tôi sẽ trả cho ông bao nhiêu?” Sadaprarudita trả lời: “Ông cho tôi gì cũng được!” Sadaprarudita liền rút thanh gươm bén và đâm vào cánh tay phải, khiến cho máu chảy. Bồ Tát đâm vào đùi phải, cắt thịt ra và tiến tới chân tường để đập nát xương.
Một con gái của nhà buôn, từ cửa sổ, nhìn được việc này và tự nghĩ: “Vì sao thiện nam tử này lại làm như vậy đối với thân minh? Ta sẽ đến và hỏi ông ấy.” Cô ta đến với Sadaprarudita và nói: “Vì sao ông lại tự làm những điều chết người đối với tự thân? Và ông làm gì với máu này, và với tủy của xương ông?”
Sadaprarudita liền nói: “Khi tôi bán chúng cho chàng thanh niên này, tôi sẽ đến để thờ phụng Trí tuệ hoàn hảo, và kính lễ Bồ Tát Dharmodgata”. Người con gái của lái buôn liền nói: “Giá trị nó là thế nào, sự xuất sắc của giá trị như vậy là gì, mà ông tự tạo nơi thân ông bởi ước muốn tôn thờ Bồ Tát Dharmodgata khi ông bán tim, máu và tủy của ông?”
Sadaprarudita liền trả lời: “Dharmodgata sẽ giảng nói cho tôi về Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo. Tôi sẽ rèn luyện tại đây, và kết quả là tôi sẽ trở thành nơi trú ẩn cho tất cả chúng sinh; và tại thời điểm này khi tôi nhận biết được Bodhi, và có được sắc thân hoàng kim, 32 tướng của Phật, 80 tướng khác, và hào quang rực rỡ chiếu đến vô tận, sự đại thân thiện, đại từ bi, đại hỷ cảm thong, đại công bằng, 4 địa của sự tự tin, 4 trí phân tích, 18 pháp đặc biệt của Phật, và có được 5 siêu trí thức, sự thuần khiết không thể tưởng tượng được của cách cư xử đạo đức, sự thuần khiết không thể tưởng tượng được của thiền định, sự thuần khiết không thể tưởng tượng được của trí tuệ, và 10 lực của Phật. Tôi sẽ biết được trí vô thượng của Phật, và có được viên ngọc Pháp quý báu vô cùng, mà tôi sẽ chia sẻ cho tất cả chúng sinh”
Con gái của người lái buôn trả lời: “Thật tuyệt vời, thiện nam tử, những pháp mà ông nói thật cao quý và siêu phàm. Chỉ vì một pháp trong số các pháp này mà một người muốn từ bỏ cuộc sống trong vô số kiếp, huống gì cho nhiều pháp như vầy. Những pháp mà ông nói đến cũng làm ta rất vui thích, hài lòng, và có vẻ tốt đối với ta. Nhưng ông xem, thiện nam tử, tôi sẽ cho ông bất cứ điều gì ông cần, và với những thứ này, ông có thể dâng hiến Bồ Tát Dharmodgata! Nhưng đừng tự làm hại bản thân như vây! Tôi cũng sẽ cùng ông đến với Bồ Tát Dharmodgata! Cùng với ông, tôi cũng sẽ gieo trồng căn lành, mà nó sẽ giúp nhận biết được những pháp như vậy!”
Sakra, Đế Thích, lúc này bỏ đi diện mạo của chàng thanh niên, và hiện nguyên thân mình đứng trước Bồ Tát Sadaprarudita, và nói với Bồ Tát: “Ta tán dương ông vì tinh thần phụng sự (việc cần làm) vững chắc. Ở trong 3 thời, các Phật cũng có sự mong muốn, ham thích rất lớn đối với Pháp, và chính nhờ điều này mà các Ngài nhận biết được Bodhi, và có được viên ngọc quý Pháp, vì họ lúc đầu cũng đi trên Bồ Tát thừa, và cũng đặt câu hỏi về Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo. Ta không cần đến tim, máu và tủy của ông. Ta chỉ đến đây để thử ông. Bây giờ hãy chọn một điều đi. Ta sẽ cho ông bất cứ điều gì!”
Sadaprarudita trả lời: “Hãy cho tôi pháp tối thượng của Phật!” Sakra, Đế Thích nói: “Đây không thuộc lãnh vực của tôi. Đây thuộc về lãnh vực của Phật. Hãy chọn một điều ước khác đi!” Sadaprarudita trả lời: “Đừng bận tâm về tình trạng bị tổn thương của cơ thể tôi! Bây giờ tôi sẽ làm nó lành lại bằng thần lực của sự xác định Sự thật. Vì sự thật là tôi bất thoái chuyển, và được thọ ký Bodhi. Tôi được Phật biết đến bởi sự quyết tâm không thể quật ngã được- nhờ vào Sự thật này và sự phát ngôn của Sự thật này, cầu cho thân thể tôi liền lại như trước!” Ngay lúc này, ngay lập tức vào giây phút này, nhờ vào lực của Bồ Tát và sự thuần khiết hoàn hảo của sự quyết tâm của Bồ Tát, thân thể của Bồ Tát Sadaprarudita trở nên như xưa, mạnh khỏe và toàn vẹn. Và Sakra, Đế Thích và ác Ma nín lặng, và biến mất khỏi nơi đây
Người con gái của lái buôn liền nói với Sadaprarudita: “Nhanh lên, thiện nam tử, hãy vào nhà tôi. Tôi sẽ bảo cha mẹ đưa tặng vật quý giá cho ông để ông bày tỏ ước muốn thờ phụng Trí tuệ hoàn hảo, và kính lễ Bồ Tát Dharmodgata, một ước muốn xuất phát từ lòng yêu pháp của ông”. Bồ Tát Sadaprarudita và con gái của người lái buôn cùng tiến vào nhà. Khi đến nơi, Sadaprarudita đứng trước cửa, còn người con của vị lái buôn liền vào nhà và nói với cha mẹ nàng rằng: “Cha, mẹ, hãy cho con một phần của báu! Con sẽ đi cùng với 500 người nữ tì mà cha mẹ đã tặng cho con! Cùng với Bồ Tát Sadaprarudita, con sẽ đến với Bồ Tát Dharmodgata, để mà thờ phụng ngìa. Và Ngài sẽ diễn pháp cho chúng con, và nhờ vậy mà chúng con sẽ có được pháp của Phật”. Cha mẹ nói: “Bồ Tát Sadaprarudita là ai, có phải ông ta vừa ở đây không?”
Người con gái trả lời: “Thiện nam tử này đang đứng ở trước cửa nhà chúng ta. Ông ta quyết tâm biết được Bodhi, nói cách khác là ông muốn giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sự khổ vô lượng của sinh và tử”. Cô ta nói với cha mẹ tất cả những gì mình nghe và thấy, và Bồ Tát Sadaprarudita đã bán thân như thế nào, đã cắt xẻo thân mình, và, khi cô hỏi vì sao ông làm như vậy thì người này ca ngợi và nói với cô ta về các giá trị không thể tưởng tượng nổi của một Phật và pháp vô số lượng của Phật, và ông có mục tiêu muốn đạt được như vậy. Co ta nói tiếp “Khi con nghe được giá trị (qualities) không thể tưởng tượng của Phật thì con cảm thấy vui mừng vô cùng, lại rất phấn chấn. Con tự nghĩ: “Thật tuyệt vời khi thấy thiện nam tử này đã cố gắng nhường nào để làm việc khó như vậy, và ông ta yêu quý pháp đến mức nào để mà chịu đựng thống khổ, đau đớn thể xác như vậy. Chính vì lòng yêu pháp mà ông ta đã từ bỏ chính bản thân mình. Ngay khi chúng ta có được của cải nhiều vô số như vậy, làm sao mà có thể không tôn kính, thờ phụng pháp, và ước nguyện đạt đến những trạm như vậy?” Chính vì vậy, con nói với thiện nam tử này rằng: “Ông đừng tự làm những việc chết người như vậy nữa! Tôi sẽ cho ông nhiều của cải, để mà ông tôn thờ và kính trọng Bồ Tát Dharmodgata, tôi cũng sẽ cùng ông đến với Bồ Tát, để tôi cùng thờ phụng Ngài. Tôi cũng sẽ hoàn thành những pháp tối thượng của Phật mà ông nhắc đến! Cha và mẹ, hãy cho con đi, và cho con những của báu mà con cần!
Cha mẹ nàng trả lời: “Con thuật lại sự khó khăn của thiện nam tử này thật tuyệt. Vì cầu pháp mà người này đã chịu những khổ ải như vậy, thật không thể tưởng tượng nổi, những pháp này chắc chắn là rất xuất sắc trong toàn thế giới, là nguồn hạnh phúc cho tất cả chúng sinh! Cha mẹ sẽ cho con của cải để con đi. Chúng ta cũng muốn đi chúng với con để thấy, kính lễ, tôn trọng và thờ phụng Bồ Tát Dharmodgata”. Người con trả lời: “Xin cha mẹ hãy cứ làm như vậy, con không ngăn cản những ai làm việc đúng nơi sự thật (in truth do right)”.
Gặp gỡ Dharmodgata
Chính như vậy, người con của vị lái buôn quyết định đến tôn thờ và kính lễ Bồ Tát Dharmodgata. Cô ta dùng 500 cỗ xe và ra lệnh cho 500 người hầu chuẩn bị. Lại đem theo nhiều của báu và nhiều đồ ăn uống, cưỡi trên một cỗ xe chung với Bồ tát Sadaprarudita và hướng về phía Đông, bao quanh bởi 500 trinh nữ ngồi trong 500 cỗ xe, hộ tống bởi đoàn tùy tùng lớn, và dẫn đầu bởi cha mẹ của cô ta.
Sau một thời gian, Bồ Tát Sadaprarudita nhìn thấy thành phố Gandhavati từ xa. Ở giữa khu chợ ông nhìn thấy Bồ Tát Dharmodgata ở giảng đàn, đang thuyết pháp, được bao quanh và tôn kính bởi đại hội hành trăm người, hàng ngàn, hàng trăm ngàn
Khi Bồ Tát thấy được Thầy, ngài tràn đầy hạnh phúc, cũng như hạnh phúc mà một Tăng có được khi tập trung nhập được vào sơ thiền. Ông ngắm nhìn thầy và tự nghĩ: “Thật không thích đáng nếu tôi ngồi trên cỗ xe mà đến gặp Bồ Tát Dharmodgata. Tôi sẽ xuống tại đây!” Ngài liền xuống khỏi cỗ xe, và con gái người lái buôn cùng với 500 người hầu cùng xuống theo. Sadaprarudita cùng con gái người lái buôn và 500 người hầu tiến đến chỗ ngồi của Bồ Tát Dharmodgata ở giữa sự trang bày oai nghiêm của sự khát muốn tôn giáo (religious aspiration)
Vì Bồ Tát Dharmodgata lúc này, vì Trí tuệ hoàn hảo, tạo ra một tháp nhọn ở mũi, làm từ thất bảo, trang hoàng với gỗ chiên đàn hương màu đỏ, được bao quanh bởi trang hoàng những viên ngọc châu. Các viên ngọc, đá khác cũng được đặt ở 4 góc của tòa tháp nhọn này, và có chức năng như là các ngọn đèn. 4 bát hương làm bằng bạc được treo ở 4 mặt, gỗ tuyền nhung của cây lô hội đang được đốt trong bát hương này, như là để thờ kính Trí tuệ hoàn hảo. Và ở giữa tháp nhọn này là một cái đệm được làm từ 7 báu, và ở trên đệm này là một cái hộp làm từ 4 viên ngọc, đá (gems) lớn. Ở trong này thì được đặt Trí tuệ hoàn hảo, viết bằng vaidurya nung chảy trên phiến làm bằng vàng. Và tháp nhọn này được trang trí bởi các vòng hoa sặc sỡ treo thành từng dải (strips).
Bồ Tát Sadaprarudita cùng con gái người lái buôn và 500 người hầu chiêm ngưỡng tháp nhọn này, được trang hoàng tuyệt đẹp nhờ sự tham cầu tôn giáo. Họ lại thấy hàng ngàn chư thiên và Sakra, Đế Thích rải lên trên tháp nhọn thiên hoa Mạn đà la, bột chiên đàn hương, bụi vàng của thiên cung và bụi bạc của thiên cung, và họ lại nghe được những kỹ nhạc của thiên cung. Sadaprarudita liền hỏi Đế Thích: “Vì sao ông cùng với hàng ngàn chư Thiên lại rải thiên hoa Mạn đà la lên tháp nhọn làm bằng 7 báu này…và vì sao các chư thiên trên không trung lại gióng nhạc trời như vậy?”
Đế Thích trả lời: “Thiện nam tử, ông không biết sao? Đây chính là Trí tuệ hoàn hảo, là mẹ và người dẫn đường của Bồ Tát. Khi Bồ Tát rèn luyện nơi đây thì họ sẽ chóng đạt tới Trí tuệ hoàn hảo của tất cả các giá trị, và nhờ vậy mà biết được pháp của Phật và trí tuệ của tất cả phương tiện
Sadaprarudita trả lời: “Vậy Trí tuệ hoàn hảo, mẹ và người dẫn đường của Bồ Tát hiện đang ở đâu?”
Đế Thích trả lời: “Bồ Tát Dharmodgata hiện đang đặt Trí tuệ hoàn hảo tại giữa tháp nhọn này, và ông viết chép Trí tuệ hoàn hảo bằng Vaidrya nung chảy lên phiến vàng ròng, và lại niêm phong bằng 7 dấu ấn. Chúng tôi không thể chỉ ra cho ông dễ dàng được”.
Lúc này, Bồ Tát Sadaprarudita cùng con gái người lái buôn và 500 người hầu cùng kính lễ tới Trí tuệ hoàn hảo- dùng những bông hoa họ đã mang theo, cùng với dây xâu hoa, vòng bao quanh, quần áo, ngọc quý, hương nhang, cờ và hoa vàng, bạc, và theo thứ tự, họ đặt những phần này trước và để kính lễ, tôn vinh Bồ Tát Dharmodgata. Họ lúc này liền tôn thờ Bồ Tát Dharmodgata bằng cách rải những bông hoa, cùng với dây xâu hoa, vòng bao quanh, quần áo, ngọc quý, hương nhang, cờ và hoa vàng, bạc trước Ngài, và chơi nhiều thiên nhạc- đều được thôi thúc bởi lòng yêu mến và thờ phụng pháp
Những bông hoa tự bay lên trên đỉnh đầu của Bồ Tát Dharmodgata và biến thành pháp nhọn làm bằng hoa. Và những bông hoa đa sắc này, vàng và bạc, trụ trên không trung thành lọng. Và những trang phục, ngọc trang sức cũng trụ trên không trung như là một cái đình trên mây. Khi Bồ Tát Sadaprarudita cùng con gái người lái buôn và 500 người hầu nhìn thấy cảnh tượng này, họ tự nghĩ: “Thật tuyệt vời khi chúng ta thấy được những thần biến như vậy, những năng lực mà Bồ Tát Dharmodgata có được, thần lực thật vĩ đại, uy lực cũng thật vĩ đại.
Cho đến lúc này, Ngài chỉ đi trên Bồ tát đạo, mà lại có những năng lực thần biến như vậy. Huống gì khi Ngài đã biết được Bodhi thì lại có được nhiều hơn nữa?” Con gái người lái buôn và 500 người hầu lúc này cảm thấy khao khát, nhớ nhung (longing) Bồ Tát Dharmodgata. Đồng tâm, họ cùng quyết phát tâm đến Bodhi, và nói: “Cầu cho chúng tôi, nhờ năng lực thiện căn này, sẽ trở thành Phật! Cầu cho chúng tôi sẽ đi trên Bồ Tát đạo, và tiếp nhận được chính những pháp mà Bồ Tát Dharmodgata đã tiếp nhận! Cầu cho chúng tôi cũng tôn kính và quý trọng Trí tuệ hoàn hảo giống như Bồ Tát Dharmodgata đã tôn kính và kính trọng như vầy đây (Trí tuệ hoàn hảo), và cầu cho chúng tôi tiết lộ Trí tuệ hoàn hảo cho nhiều người, giống như hiện giờ Bồ Tát đang làm! Và cầu cho chúng tôi có được (endowed) Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo, và đều hoàn thành tất cả những điều này giống như Bồ tát Dharmodgata!”
Bồ Tát Sadaprarudita cùng con gái người lái buôn và 500 người hầu, khi đều tôn thờ Trí tuệ hoàn hảo và đê đầu kính lễ Bồ Tát Dharmodgata, liền chắp tay tôn trọng và đứng qua một bên. Bồ Tát Sadaprarudita lúc này liền thuật lại toàn bộ câu chuyện mà ông tìm kiếm Trí tuệ hoàn hảo, bắt đầu từ giọng nói trong rừng khuyến khích ông đi về hướng Đông. Ông cũng kể cho Bồ Tát Dharmodgata biết ông đã đứng lặng, tập trung (thiền định?) và các chư Phật ở 10 phương đã an ủi và khen ngợi ông, các Ngài nói rằng:
Thiện nam tử, tốt lắm! Những sự tập trung này xuất phát từ Trí tuệ hoàn hảo. Chính nhờ trụ vững tại Trí tuệ hoàn hảo mà chúng tôi đã đạt được tất cả các pháp của Phật”. Ông lại nói tiếp: “Các Phật hiện đã biến mất, và con xuất khỏi trạng thái tập trung này. Con tự hỏi, “các Phật đến từ đâu, và đi đến đâu? Con cũng tự nghĩ, “Bồ Tát Dharmodgata đã có được các Đà la ni, lại sở hữu 5 siêu tri thức, lại còn hoàn thiện bổn phận của mình nơi các Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại, ngài cũng đã trồng các thiện căn và cũng rèn luyện nhiều trong Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo. Ngài ấy có thể giải thích cho con sự thể này như đúng chính xác nó là như vậy, và nói cho con biết các Phật đến từ đâu và đi đến đâu.” Lúc này con đến với Ngài, và hỏi Ngài, thiện nam tử, các Phật đến từ đâu, và đi đến đâu? Thiện nam tử, xin hãy chỉ ra cho con biết sự đến và đi của các Phật, để con nhận biết được điều này, và không xa rời (hình ảnh của- vision of) các đức Thế Tôn.
Chương XXXI
Dharmodgata
Sự đến và đi của các Đức Phật
Dharmodgata: Các Phật thì dĩ nhiên không đến từ đâu, cũng không đi đến đâu. “Sự thể như vậy” không chuyển động, và Phật chính là Sự thể như vậy. Sự vô sinh không đến cũng không đi, và Phật thì là vô sinh. Ta không thể nghĩ được sự đến và đi của giới hạn hiên thực, và Phật chính là giới hạn hiện thực. Điều này cũng đúng với sự vắng lặng, của bất cứ thứ gì tồn tại theo như sự thật (in according to facts), hay của sự không xúc động (dispassionate), hay sự dừng lại, hay nguyên tố không gian (element of space). Phật thì không nằm ngoài những pháp này. Sự thể như vậy như các Pháp này chính là Sự thể như vậy của bất cứ và tất cả các pháp, và Sự thể như vậy như là Phật (Suchness as Tathagata) thì đơn giản là Sự thể như vậy của bất cứ và tất cả các Phật. Không có ranh giới chia biệt bên trong Sự thể như vậy. Đơn giản là trước (before), xuyên trong suốt khoảng thời gian (throughout), và sau cùng đều là Sự thể như vậy. “Như vậy” thì không phải là 2, 3, hay là 1 mà được chia thành nhiều. Sự thể như vậy cũng không vượt trên sự tính đếm, vì thực chất thì nó không thể được tính đếm, và dĩ nhiên là ở đây không là gì (có gì) để mà kết thúc. Sự thể như vậy thì không phải là 1, hay khác 1 để mà định ra được tính độc nhất, cũng không phải 2 hay 3 hay là khác, nằm ngoài (apart) những điều này. Sự thể như vậy thì không thể liên hệ và được (làm) liên hệ với bất cứ thứ gì hay là khái niệm gì, tuy vậy, Sự thể như vậy thì là vĩ đại nhất của tất cả những gì có thể tưởng tượng được và vượt trên vô hạn, ngay cả…việc này (even “this”)
Một người đàn ông, bị nắng mùa hè thiêu đốt, vào tháng cuối cùng của mùa hè, bỗng thấy một ảo ảnh trôi lềnh bềnh, và lại hướng về nó, nghĩ rằng “Ở đây tôi sẽ tìm thấy nước, ở đây tôi sẽ tìm thấy thứ gì đó để uống”. Thiện nam tử, ông nghĩ sao, liệu nước này có đến từ đâu chăng, hay đi đến đâu chăng, tới biển Đông (Thái Bình Dương) hay là Nam, Bắc, hay Tây?
Sadaprarudita: Không có nước nào tồn tại nơi ảo ảnh này. Làm sao mà sự đi và đến của nó được nghĩ hay tưởng tượng được? Người đàn ông này thì nhu ngốc và không có hiểu biết, vì khi thấy ảo ảnh, lại nghĩ là có nước, vì ở đây không có nước. Nước như là tự thể của nó không tồn tại trong ảo ảnh này, cũng như trong tâm trí của người này.
Dharmodgata: Cũng vậy, những người gắn kết nhìn nhận (adhere) Phật qua hình tướng và âm thanh thì cũng thiếu hiểu biết như vậy, và người này tưởng tượng là có sự đến và đi của Phật. Phật thì không thể được nhìn thấy hay nhận định qua bất cứ thân hình nào. Pháp thân chính là Phật như vậy, và bản tính thật của pháp thì không đến cũng không đi. Nếu có người biến hiện ra những thân voi, ngựa, lính cỗ xa hay lính bộ, cây hay một hòn đá thì những thứ này cũng không đến và không đi. Cũng như vậy, không có sự đến hay đi của Phật, mà (which), giống như tất cả mọi vật, không có sự công nhận hay sự biến hiện gì cả. Một người đang ngủ thì có thể mơ thấy 1 Phật, 2, 3 hay đến 1000 Phật, hay hơn nữa. Khi tỉnh dậy, người này không thấy những đến 1 Phật. Thiện nam tử, ông nghĩ sao, các Phật này có đến từ đâu và đi đến đâu chăng? Khi Phật mói “người này đi” theo nghĩa tương đối này, người này không thể đến. (As Tathagata means 'one thus gone', in this relative sense in so doing one cannot thus come). Nhưng những gì không thường xuyên được hiểu thấu là Phật cũng muốn nói (means) “người này đến”, và cũng giống như vậy, vì là như vậy nên người này không thể đi. Tuy vậy, sự thật của nguyên lý và điều thật (truth) này chính là ở trong, hay như là “Sự thể như vậy”, Phật không đến cũng không đi, cùng lúc (at once) trong và xuyên suốt 3 thời gian này…và ngay lập tức ở đây trụ tại “không” (naught) nhưng sự nhận biết không phân biệt thuần khiết giống như không gian bên ngoài và xuyên suốt (trong?) bất cứ và tất cả các pháp. Thế nên sự khác biệt về sự bình thản, trầm tĩnh, thuần khiết của thái độ, lập trường này giống như trạm không thể tìm hiểu được của tất cả các pháp(Such is this difference of purely equanimous stance the same as this fathomless station of all dharma).
Sadaprarudita: Ta không thể tưởng, nghĩ bất cứ pháp nào trong mơ như là có được tính chẩt (status) của hiện thực đầy đủ và hoàn hảo, vì tất cả các giấc mơ đều là giả dối
Dharmodgata: Cũng giống như vậy, Phật nói tất cả các pháp đều như là 1 giấc mơ. Những ai không thông minh nhận biết tự nhiên tất cả các pháp như sự thật của pháp, vốn như Phật nói, là giấc mơ thì những người này nhìn nhận Phật qua thân tên gọi và thân hình tướng, và vì vậy họ tưởng tượng Phật là đến và đi. Những người không biết về bản tính thật của các pháp thì tưởng tượng là có sự đến và đi của các Phật, những người này là phàm phu kém hiểu biết…không kiên trì vào sự thật, và trong hiện tại cũng như bất cứ và tất cả các thời gian, họ sẽ đi trong sinh tử lục đạo, và họ ở cách xa sự nhận biết về Trí tuệ hoàn hảo, xa rời các pháp của Phật, tuy là trải nghiệm những pháp này trong mỗi một hơi thở, gần như là (gần) đối với cuộc sống thuần khiết.
Mặc khác, những người biết tất cả các pháp như là giấc mơ, như thật sự là như vây, hay đồng thuận (in agreement) với những gì Phật dạy, những người này không tưởng tượng sự đến hay đi của bất cứ pháp nào, hay có sự sản sinh hay dừng lại (stopping). Những người này tự nhiên biết bản tính thật của Phật, và không tưởng tượng có sự đến hay đi của Phật. Và những người người tự nhiên biết bản tính thật của Phật, và họ đã tiến gần đến Bodhi và họ đi trên Trí tuệ hoàn hảo này. Những đệ tử của Phật này không xài phung phí của cúng dường, và họ xứng đáng với kết quả và sự hiến cúng của thế giới. Những viên đá quý trong đại dương không đến từ bất cứ nơi đâu, Đông hay Tây, hay các hướng khác trong 10 hướng, mà có được sự tồn tại này (của chúng) là nhờ thiện căn của chúng sinh. Chúng không phải được sinh ra mà không có lý do, và cũng không phải không có lý do mà chúng được sinh ra. Chúng chỉ xuất hiện (manifest) nhờ có nguyên nhân và điều kiện. Tuy vậy, cũng như phụ thuộc vào nguyên do, điều kiện và lý do, những viên ngọc quý này cũng đồng sinh và dừng lại bởi các điều kiện, chúng không được chuyển cho, nối tiếp (pass on) tới bất cứ nơi nào trên thế giới ở bất cứ 10 phương nào. Tuy vậy, vì những điều kiện này tồn tại, viên đá quý được tăng lớn lên (augmented); khi những điều kiện này vắng mặt thì không có sự lớn lên nào cả. Cũng như vậy, cơ thể hoàn hảo của Phật không đến từ bất cứ nơi nào của 10 phương thế giới, và cũng không đi đến nơi nào trên thế giới 10 phương. Nhưng thân của Phật thì khong phải không có lý do. Thân được đưa đến sự hoàn hảo nhờ vào đạo đức và hành xử trong thời gian (by action and conduct in time), và được sinh ra phụ thuộc vào nguyên nhân và các điều kiện, đồng sản sinh nhờ những phụ trợ khác có được từ nghiệp lực trong quá khứ. Thân Phật không ở bất cứ đâu trên thế giới 10 phương. Nhưng khi những điều kiện này tồn tại thì thân Phật xuất hiện; khi những điều kiện này vắng mặt thì sự hoàn thiện của thân thì không thể nghĩ được (inconceivable).
Cũng như khi âm thanh của đàn thụ cầm (boogharp) được sinh ra, nó không đến từ đâu cả. Khi âm thanh dừng lại, nó không đi đến đâu, và không được chuyển đến đâu. Nhưng nó được sản sinh từ sự tổng hợp của nguyên nhân và điều kiện- như là thân hình thuyền rỗng ruột của đàn, da tạo âm, dây đàn, cánh rỗng của đàn, nẹp của đàn, miếng gảy đàn, người chơi đàn, sự gắng công của người này, và kiến thức âm nhạc. Theo cách này, âm thanh đến từ cây đàn, phụ thuộc vào nguyên nhân và điều kiện. Và tuy vậy, âm thanh đó không đến từ thân rỗng của đàn, không từ da tạo âm, không từ dây, từ cánh rỗng, từ nẹp, từ miếng gảy, từ người chơi đàn, từ sự cố gắng hay kiến thức của người này. Chỉ là tổng hợp tất cả các thứ này mà âm thanh có thể nghe được. Và khi dừng chơi thì âm thanh không đi đến đâu vậy.
Cũng như vậy, thân thể hoàn hảo của Phật thì phụ thuộc vào nguyên nhân, phụ thuộc vào điều kiện, và thân được dẫn đến sự hoàn hảo nhờ nỗ lực đưa đến nhiều căn lành. Nhưng sự tang trưởng của thân Phật không phải là từ một nguyên nhân duy nhất, không từ một điều kiện duy nhất, không từ một căn lành duy nhất. Cũng không phải không có nguyên nhân. Thân Phật được đồng sinh bởi sự tổng hợp của nhiều nguyên do và điều kiện, nhưng không đến từ bất kỳ nơi nào. Và cũng như vậy, khi sự tổng hợp của nguyên nhân và điều kiện dừng lại thì thân Phật không đi đến đâu. Vì vậy mà có sự nhìn nhận về việc đến và đi của Phật, và điều này phù hợp, tuân theo bản tính thật của tất cả các pháp. Và cũng chính như việc này được tự nhiên nhận biết là- Phật, cũng như tất cả các pháp thì không sinh, cũng không dừng lại, thì ông đã cố định tại Bodhi, và chắc chắn đi trên Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo
Khi sự nghiên cứu, thảo luận về sự không đến cũng không đi của Phật đang được diễn nói thì trái đất và cả Tam thiên đại thiên thế giới chuyển động 6 cách, rung chuyển, chấn động, sôi động, vang động và nổ ầm ầm (rumble). Và tất cả thế giới được xem như của Ma bị khuấy động và đảo lộn. Tất cả cỏ, bụi rậm, thảo mộc và cây cối trong tam thiên đại thiên thế giới hướng về phía Bồ tát Dharmodgata. Hoa nở tuy không đúng mùa. Từ không trung hoa mưa xuống. Và Sakra, Đế Thích và Tứ Đại Thiên Vương rải đổ bột thiên chiên đàn và thiên hoa lên Bồ Tát Dharmodgata và nói: “Thiện nam tử, ông nói hay lắm. Nhờ thần lực của ông mà chúng tôi nghe được bài thuyết giáo đến từ sự thật tối hậu (ultimate), vốn trái ngược với cả thế giới, và không đưa ra một cơ sở, chỗ dựa nào cho bất cứ chúng sinh nào trụ tại kiến nhận, suy nghĩ bao gồm (trong đó) sự giả thiết (assumption) về một cá thể, hay ổn định tại kiến nhận, cách nhìn nhận về sự tồn tại của một vật gì đó vốn không tồn tại”
Sadaprarudita liền hỏi Ngài Dharmodgata: “Đâu là nguyên nhân, đâu là lý do vì sao có cơn động đất lớn này ở trên thế giới?”
Dharmodgata: Chính nhờ ông hỏi về sự không đến và không đi của Phật, và nhờ tôi giải thích cho ông mà 8000 chúng sinh đạt vô sinh pháp nhẫn, 80 na do tha chúng sinh phát tâm Bodhi, và 64000 chúng sinh có được pháp nhãn thanh tịnh, thản nhiên (không bị kích động), để có thể nhìn nhận pháp
Sự hy sinh của Sadaprarudita
Bồ Tát Sadaprarudita lúc này cảm thấy một niềm vui tột đỉnh, lớn nhất: “Thật là một món lợi lớn cho tôi, một món lợi rất lớn khi tôi hỏi về Trí tuệ hoàn hảo, và nhờ vào cuộc nói chuyện này mà tôi đem lại hạnh phúc cho rất nhiều chúng sinh. Chỉ việc này thôi cũng đã đủ công đức để tôi hoàn thành, đạt được Bodhi. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi trở thành Phật”. Trong niềm vui và hân hoan, ông bay lên không trung cao 7 cây cọ (đa la?), và đứng trên độ cao 7 cây cọ, ông suy nghĩ: “Làm cách nào để tôi có thể kính lễ Bồ Tát Dharmodgata khi đang trụ tại không trung như vầy?” Đế Thích, thấy được ông, và đọc được suy nghĩ của ông, liền tặng cho ông thiên hoa Mạn đà la, và nói với ông: “Hãy kính lễ Bồ Tát Dharmodgata với những thiên hoa này! Vì chúng tôi cảm thấy bằng cách này chúng tôi đã tôn kính người đã giúp ông. Hôm nay ông sẽ đem lại hạnh phúc cho hang ngàn chúng sinh. Người như ông vì lợi ích của chúng sinh mà trong vô số kiếp mang gánh nặng như vậy thật là hiếm có”.
Bồ Tát Sadaprarudita lúc này lấy hoa Mạn đà la từ Đế Thích và rải hoa lên Bồ Tát Dharmodgata. Ông hiến thân mình tặng cho Bồ Tát Dharmodgata và nói: “Con xin hiến thân này như lễ vật, và từ ngày hôm nay con sẽ là người hầu cận và phục vụ của Ngài”. Và Bồ Tát đứng chắp tay trước Dharmodgata. Con gái của người lái buôn cùng với 500 nữ tì cũng nói với Bồ Tát Sadaprarudita: “Về chúng tôi thì chúng tôi cũng muốn hiến thân mình cho ông, thiện nam tử. Nhờ những thiện căn này mà chúng tôi nhận được những pháp như vầy, và cùng với ông, chúng tôi sẽ luôn kính lễ và tôn vinh các Phật và Bồ Tát, và chúng tôi sẽ luôn bên cạnh ông”. Sadaprarudita trả lời: “Các vị thiếu nữ, cùng đồng với ý định thành kính của tôi, cũng có ý định chân thành muốn hiến tặng thân cho tôi, tôi sẽ chấp nhận các vị”. Các thiếu nữ trả lời: “Chúng tôi đồng với ông, và với lòng quyết tâm chân thành, chúng tôi tự hiến bản thân mình cho ông, ông tùy ý với chúng tôi (do with us as you may). Tại đây và lúc này, Bồ Tát Sadaprarudita hiến tặng người con gái của người lái buôn cùng với 500 thiếu nữ, được tô điểm và trang sức, cùng với 500 cỗ xe được trang trí của họ, tất cả hiến đến Bồ Tát Dharmodgata và nói: “Tất cả con xin hiến tặng cho Ngài như là người hầu cận, và cùng với các cỗ x echo Ngài dùng”. Đế Thích khen ngợi họ và nói: “Tốt lắm, thiện nam tử! Bồ Tát thì từ bỏ bất cứ và tất các tài sản. Nhờ suy nghĩ từ bỏ này mà người này sẽ chóng nhận biết được Bodhi, và sự thờ phụng đối với người thuyết Pháp sẽ khiến cho người này được nghe Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo. Cũng vậy trong 3 thời, các Phật, khi còn là Bồ Tát cũng, theo sự thật này (by this fact) mà từ bỏ tất cả, phát ra tâm nguyện muốn nhận biết được Bodhi, và các Ngài cũng đặt câu hỏi về Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo”. Bồ Tát Dharmodgata chấp nhận những lễ vật củ Sadaprarudita, để thiện căn của Bồ Tát được thành thục. Ngay lập tức sau đó, Bồ Tát liền hồi trả lại những gì Ngài nhận được. Sau rốt, Bồ Tát Dharmodgata đi vào trong nhà. Mặt trời bắt đầu lặn
Bồ Tát Sadaprarudita tự nghĩ: “Tôi đã đến đây vì lòng yêu mến pháp, thật không thích đáng nếu tôi ngồi xuống hay nằm. Tôi sẽ hoặc đứng hoặc đi, cho đến khi Bồ Tát Dharmodgata rời khỏi nhà của Ngài, và để tiết lộ pháp cho chúng ta”
Bồ Tát Dharmodgata trong 7 năm nhập trong 1 trạng thái thiền định, không gián đoạn, và Ngài trụ tại vô số muôn ngàn thiền định, đặc trưng với các Bồ Tát, (các thiền định) đều xuất phát từ Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo. Trong 7 năm, Sadaprarudita không nằm, ngồi, và ông không rơi vào sự lười biếng hay mệt mỏi. Trong 7 năm ông không cảm thấy bận tâm tới dục lạc, ác tâm, hay hại người khác, ông không cảm thấy ham thích vị (thức ăn?), hay những sự tự mãn nào (self-satisfaction). Trái lại, ông nghĩ: “Bao giờ thì Bồ Tát Dharmodgata xuất khỏi thiền định, để chúng con trải đệm cho Ngài ngồi, và lúc này Ngài sẽ diễn nói pháp, và nơi mà Ngài tiết lộ Trí tuệ hoàn hảo và phương tiện thiện xảo, chugns con sẽ rải đầy hương thơm và trang trí nhiều loại hoa?” Và con gái người lái buôn cùng với 500 thiếu nữ cũng làm theo như Bồ Tát, chỉ chờ đợi trong 2 tư thế, và đồng với (accord with) tất cả các công việc của ông
Một ngày kia, Bồ Tát Sadaprarudita nghe được giọng nói trên không trung rằng: “Vào ngày thứ 7 kể từ hôm nay Bồ Tát Dharmodgata sẽ xuất khỏi thiền định, và lúc này, ngồi tại trung tâm của thành phố, Ngài sẽ thuyết pháp”. Khi Sadaprarudita nghe được giọng nói này, ông ta rất vui mừng khôn xiết, hân hoan, hớn hở, và hài lòng. Cùng với con gái của người lái buôn và 500 thiếu nữ, ông dọn dẹp mặt đất, trải tòa ngồi làm bằng 7 báu, cởi y trên và trải lên chỗ ngồi của Bồ Tát. Các thiếu nữ cũng cởi y trên và trải 500 áo của họ trên chỗ ngồi của Bồ Tát, họ nghĩ: “Bồ Tát Dharmodgata sẽ ngồi trên chỗ ngồi này để thuyết pháp”. Và họ cũng vui mừng khôn xiết, hân hoan, hớn hở, và hài lòng.
Khi Bồ Tát Sadaprarudita muốn rưới mặt đất, ông không tìm thấy nước ở đâu, và ông tìm khắp cả. Vì ác Ma được biết, và nhìn thấy như là đã dấu hết nước. Và hắn làm như vậy để Sadaprarudita không thể tìm thấy nước, và sẽ thất vọng và buồn bã, rồi sẽ thay đổi ý định, và kết quả là thiện căn của ông sẽ biến mất, hay niềm nhiệt tình của ông đối với việc thờ phụng sẽ bị hạn chế. Bồ Tát Sadaprarudita liền tự nghĩ: “Ta sẽ đâm thân này, và rải mặt đất bằng máu của ta. Mặt đất thì đầy bụi bẩn, và ta sợ một vài hạt bụi sẽ rơi vào thân Bồ Tát Dharmodgata. Ta còn có thể làm gì với thân này, vốn cần thiết (of necessity) sẽ chắc chắn tan rã? Tốt hơn hết là để thân tôi bị hủy hoại bởi những hành động như vậy, thay vì những việc vô ích. Vì dục lạc, và vì kết quả của dục lạc, hang ngàn thân của ta đã tan rã (break up) khi ta không ngừng lang thang trong sinh tử, nhưng chưa bao giờ có được điều kiện tốt như vầy, chưa bao giờ vì để đạt được pháp hay. Vì thân này sẽ bị tan rã them một lần nữa, hãy để nó tan rã theo bất cứ trường hợp nào(in any case), vào việc thánh thiện (holy)”. Ông liền rút một thanh kiếm bén và đâm thân mình ở đủ mọi nơi, và mọi nơi trên mặt đất đều được rải đầy máu của ông. Con gái của người lái buôn cùng với 500 thiếu nữ cũng bắt chước ông, làm theo như ông đã làm. Nhưng Bồ Tát Sadaprarudita và các thiếu nữ không đổi tâm và suy nghĩ (alteration of thought), những điều mà sẽ làm ác Ma có cơ hội thâm nhập vào họ để ngăn chặn thiện căn của họ
Đế Thích lúc này tự nghĩ: “Thật tuyệt vời khi thấy Bồ Tát Sadaprarudita yêu pháp đến nhường nào, tinh thần trách nhiệm vững chắc như thế nào, áo giáp vĩ đại mà ông đã khoác lên, và ông lại cũng không để tâm tới thân và tính mạng của ông, cùng với các việc vui thích như vầy, cùng với khát muốn của ông muốn giải thoát bất cứ và tất cả chúng sinh khỏi khổ não vô lượng của sinh-tử, một khi ông đạt biết được Bodhi”. Đế Thích lúc này dung thần lực biến tất cả máu thành nước hương chiên đàn. Và xung quanh mảnh đất này, trong vòng 100 dặm thì thoảng hương thơm tuyệt diệu không thể tưởng tượng nổi, hương thơm của nước thiên chiên đàn. Và Đế Thích nói với Sadaprarudita: “Tốt lắm, thiện nam tử! Ta khen ngợi sự mạnh mẽ, tinh tấn lực (vigor) không thể tưởng tượng được của ông, lòng yêu mến tột bực và tìm kiếm pháp. Các chư Phật trong quá khứ cũng nhờ ý định, tinh tấn lực và long yêu mến chân thành đối với pháp mà biết được Bodhi”.
Bồ Tát Sadaprarudita tự nghĩ như vầy: “Tôi đã trải chỗ ngồi cho Bồ Tát Dharmodgata, và quét dọn, lại rải nước trên mặt đất. Bây giờ tôi cần lấy hoa để bao phủ mặt đất này, cũng để rải lên Bồ Tát Dharmodgata khi Ngài thuyết pháp”. Sakra liền nói với Sadaprarudita: “Hãy nhận lấy những thiên hoa Mandarava cho 2 việc này!” Và ông tặng cho Bồ Tát 1000 Khara (đơn vị đo lường ở thiên cung) thiên hoa. Và Bồ Tát Sadaprarudita nhận những bông hoa này, và dung một số để phủ mặt đất, còn lại thì lúc sau này, ông dùng trải lên Bồ Tát Dharmodgata.
Sự diễn thuyết pháp của Dharmodgata
Sau 7 năm, Bồ Tát xuất khỏi thiền định, đến tới chỗ ngồi được trải ra cho mình, ngồi xuống và được bao quanh bởi đại hội trăm ngàn người, bắt đầu thuyết pháp. Ngay khi Bồ Tát Sadaprarudita thấy được Bồ Tát Dharmodgata, ông có được niềm vui tràn đầy, giống như khi một vị tăng khi nhất tâm đạt được sơ thiền. Và đây là những gì Bồ Tát Dharmodgata nói đến về Trí tuệ hoàn hảo:
Trí tuệ hoàn hảo thì tự giống hệt như bản thân chính nó (self-identical), và vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều giống nhau. Trí tuệ hoàn hảo thì tách biệt, và vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều tách biệt. Trí tuệ hoàn hảo thì bất động, và vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều bất động. Trí tuệ hoàn hảo thì không có hoạt động của tâm (mental acts), và vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều không có hành động của tâm. Trí tuệ hoàn hảo thì không bị làm tê liệt (unbenumbed), và vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều không bị tê liệt, cứng nhắc. Trí tuệ hoàn hảo thì chỉ có 1 vị (taste), và vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều có vị giống nhau. Trí tuệ hoàn hảo thì vô biên, và vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều là vô biên. Trí tuệ hoàn hảo thì vô (không được sinh) sinh, và vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều vô sinh. Trí tuệ hoàn hảo thì không có sự dừng lại (non-stopping), và vì vậy, bất cứ và tất cả các pháp đều không có sự dừng lại. Cũng như vòm trời thì vô biên, Trí tuệ hoàn hảo cũng vậy. Cũng như đại dương thì vô biên, Trí tuệ hoàn hảo cũng vậy. Cũng như núi Tu di có muôn màu rực rỡ, Trí tuệ hoàn hảo cũng vậy. Cũng như vòm trời thì không được tạo hình, Trí tuệ hoàn hảo cũng vậy. Trí tuệ hoàn hảo thì vô biên, và vì vậy hình tướng và các uẩn khác cũng là vô biên. Trí tuệ hoàn hảo thì vô biên, và vì vậy đất và các nguyên tố khác cũng là vô biên. Trí tuệ hoàn hảo thì tự giống chính nó (self-identical), và vì vậy các pháp khó vỡ (adamantine) cũng là tự giống. Trí tuệ hoàn hảo thì không bị phân biệt, và vì vậy các pháp cũng là không bị phân biệt (làm cho trở nên khác biệt). Sự không nắm bắt được (non-apprehension) của Trí tuệ hoàn hảo đến từ sự không thể nắm bắt được của tất cả các pháp. Trí tuệ hoàn hảo luôn là như vậy, không thay đổi, bất luận là Trí tuệ hoàn hảo có vẻ như vượt trên bất cứ ai hay bất cứ điều gì hay không, và vì vậy tất cả các pháp đều không thay đổi, bất luận là các pháp có vẻ như vượt lên trên (surpass) bất cứ ai hay bất cứ điều gì hay không. Trí tuệ hoàn hảo thì không có năng lực tác động (powerless to act), và vì vậy, tất cả các pháp đều không có năng lực tác động. Trí tuệ hoàn hảo thì không thể tưởng tượng được, và vì vậy, tất cả các pháp đều khong thể tưởng tượng được (unthinkable)
Tại đây và lúc này, ở thời điểm này sinh ra Bồ Tát Sadaprarudita, vua của thiền định gọi là “Sự giống nhau của bất cứ và tất cả các pháp”, và vì vậy, thiền định này được gọi là “sự tách biệt của bất cứ và tất cả các pháp”, “Sự bất động của bất cứ và tất cả các pháp”, “Sự vắng lặng của của bất cứ và tất cả hoạt động của tâm của bất cứ và tất cả các pháp”, “Sự không tê cứng, chết điếng (numbness) của bất cứ và tất cả các pháp”, “Vị của bất cứ và tất cả các pháp là như một”, “Sự vô biên của bất cứ và tất cả các pháp”, “Vô biên như vòm trời”, “Vô biên như biển cả”, “Lộng lẫy và muôn màu như núi Tu di”, “Không được tạo hình, như vòm trời”, “Vô biên như hình tướng, các uẩn”, “Vô biên như các nguyên tố đất, nước, gió, lửa vv”, “cứng chắc”, “Sự không phân biệt của bất cứ và tất cả các pháp”, “Sự không nắm bắt được của bất cứ và tất cả các pháp”, “Sự đều đặn, (giống nhau ở mọi thời) của bất cứ và tất cả các pháp bất luận là pháp có vượt qua những gì”, “Bất cứ và tất cả các pháp không có năng lực hành động”, “Bất cứ và tất cả các pháp thì không thể tưởng tượng nổi. Bắt đầu từ đây, Bồ Tát Sadaprarudita có được 6 triệu cửa thiền định
Chương XXXII
Giao phó
Kết thúc chuyện của Sadaprarudita
Cùng với việc đạt được 6 triệu cửa thiền địnhBồ Tát Sadaprarudita cũng nhìn thấy các Phật trong 10 phương thế giới, bao quanh các Ngài là những vị tăng và rất nhiều Bồ Tát, cũng đang dạy về chính Trí tuệ hoàn hảo này, cũng bằng những cách thức như vầy, những từ như vầy, những chữ như vầy, ngay cả ta vừa khi nãy ở Tam thiên đại thiên thế giới cũng diễn thuyết pháp- bao quanh là những vị tăng và rất nhiều Bồ Tát, cũng đang dạy về chính Trí tuệ hoàn hảo này, cũng bằng những cách thức như vầy, những từ như vầy, những chữ như vầy. Ngài (Sadaprarudita?) có được sở học (learning) không thể nghĩ bàn và một trí thức quý giá, thiêng liêng như đại dương. Trong tất cả những lần tái sinh sau này, ông không còn thiếu mất đi việc thân cận với Phật. Ông chỉ được sinh ở nơi mà ông sẽ tận mắt thấy chư Phật. Tất cả kiếp tái sinh khổ não, kém may mắn ông đều đã từ bỏ, và ông đã nắm chắc được những tình huống (circumstance) khiến ông tái sinh được vào những nơi thuận lợi.
Trí tuệ hoàn hảo giao phó cho Anan
Phật lúc này nói với Anan: Cũng theo cách này mà ông biết được rằng Trí tuệ hoàn hảo chính là người nuôi dưỡng trí biết toàn giác của các Bồ Tát. Tại lúc này và ở đây, Anan, Bồ Tát muốn đạt được sự toàn giác thì đi trên Trí tuệ hoàn hảo này, lắng nghe, tiếp nhận, nghiên cứu, lưu truyền, tụng và chép Trí tuệ hoàn hảo này.Bây giờ, nhờ vào lực gia trì của Phật mà Trí tuệ hoàn hảo được viết ra rõ rang, từng chữ một, thành một quyển sách lớn, cần phải tôn trọng, kính ngưỡng, và thờ phụng bằng hoa, nén hương, hương thơm, vòng hoa, thuốc cao, hương bột, dải lụa, dù, cờ xí, chuông, cờ và hang đèn xung quanh, với nhiều cách thức, kiểu thờ phụng. Đây là những gì Ta dạy cho ông, Anan. Vì trong Trí tuệ hoàn hảo này sự biết toàn giác được trở nên hoàn hảo. Ông nghĩ sao, Anan, Phật có phải là thầy của ông không?
Anan: Có, thưa Ngài.
Phật: Phật chính là thầy của ông, Anan. Ông phò trợ (minister) ta, Anan, bằng những cử chỉ thân, khẩu, ý thân thiện. Tại đây, Anan, cũng như ông yêu mến, tin tưởng, và tôn trọng Ta trong hiện tại kiếp này, cũng như vậy, Anan, khi Ta mất đi ông cũng nên như vậy đối với Trí tuệ hoàn hảo này. Lần thứ 2, lần thứ 3, Ta lại giao phó và truyền cho ông Trí tuệ hoàn hảo này, đừng để bị ẩn mất. Không có ai thích hợp hơn ông. Khi Trí tuệ hoàn hảo còn được lĩnh hội trên thế giới này thì khi ấy chắc chắn Phật vẫn trụ tại nơi đây, và cũng như vậy Phật sẽ còn thuyết pháp, và các chúng sinh không mất đi sự nhìn thấy Phật, lại được nghe pháp, sự có mặt của các Tăng. Những người nghe, tiếp nhận, nghiên cứu, lưu truyền tụng và viết chép Trí tuệ hoàn hảo, và lại tôn kính, kính trọng, thờ phụng Trí tuệ hoàn hảo chính là đang sống trong sự có mặt của Phật.
Phật nói như vậy. Các Bồ Tát, đứng đầu bởi Bồ Tát Di Lặc và Ngài Tu Bồ Đề, Ngài Anan, Đế Thích, và toàn thế giới với các chư thiên, nhân loại, A tu la, Garudas, Càn Thát bà cùng vui mừng tin nhận lới Phật nói










      







28-29

Chương XXVIII
Avakirnakusuna
Sự thọ ký của Avakirnakusuma (nghĩa: bao phủ bởi hoa)
Lúc này, chư thiên cõi 33 (Đao Lợi) dùng hoa Mandarava (Mạn đà la) và Mahamandarava và tiến tới Đức Phật. Và cùng lúc này, có 6000 tăng cũng tụ họp và ngồi trong hội. Họ rời khỏi chỗ ngồi, vắt vạt áo sang vai bên phải, gối bên phải chấm đất và chắp tay chào Phật. Nhờ thần lực của Phật mà trong tay họ có đầy hoa Madarava và hoa Mahamandarava. Họ dùng những hoa này rải lên Phật và nói: “Thưa Phật, chúng con đi trên Trí tuệ hoàn hảo!”. Lúc này và tại đây, khi tiến trình diễn biến thì Đức Phật nở một nụ cười. Khi nụ cười được hiển thị thì vô số ánh sáng đủ màu phát ra từ miệng Phật- tia sáng xanh dương, vàng, đỏ, trắng, đỏ thẫm, màu tinh thể, bạc màu da cá, và hòang kim. Những tia này soi sáng vô tận vô biên thế giới hệ bằng sự lộng lẫy này, vượt trên đến thế giới Brahma, và trở về thế giới của Phật, bay xung quanh Phật 3 vòng rồi nhập vào đỉnh đầu của Phật. Lúc này, ngài Anan rời khỏi chỗ ngồi, vắt vạt áo sang vai bên phải, gối bên phải chấm đất, chắp tay lại và nói: Không phải vô cớ mà Thế Tôn lại mỉm cười. Vậy vì sao mà Ngài lại cười?
Đức Phật liền nói: 6000 vị tăng này, Anan, tương lai ở vô số kiếp sẽ đạt được Bodhi, và ở đây họ sẽ diễn thuyết pháp cho mọi người. Họ đều đồng một tên là Avakirnakusuma. Những vị Phật này sẽ là thầy trong thế giới. Họ cũng có hội chúng đệ tử giống nhau. Đều sống lâu như nhau là 20000 kiếp. Mỗi người trong họ đều có lệnh, trát (writ) thánh thiện sâu rộng, sẽ trải dài trong chư Thiên và nhân loại. Ở mỗi trường hợp chánh pháp của họ tồn tại lâu như nhau là 20000 kiếp. Và mưa hoa đủ màu sắc đều hạ xuống họ ở bất cứ nơi đâu mà họ đến, nhà cửa, làng xóm, thành thị, chợ búa, hay ở nơi họ sẽ chuyển đẩy pháp luân, bất cứ nơi đâu họ cư trú, hay xuất hiện
Ca ngợi Trí tuệ hoàn hảo
Vậy bây giờ, Anan, trong bất cứ 3 thời này, Bồ tát muốn trụ tại chỗ cư ngụ cao nhất, vượt trên giới hạn, muốn trụ tại chỗ trụ của Phật thì trụ trong chính Trí tuệ hoàn hảo này Với những Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo như vậy, và trở nên như vậy, áp dụng thích nghi như chính mình thì người này chắc chắn, trước khi sinh ở loài người thì sẽ mất (qua đời) ở loài người hay chư thiên cõi Đâu suất (Tushitas). Vì chính ở cõi người và cõi Đâu Suất mà Trí tuệ hoàn hảo này được lưu hành. Chúng ta biết chắc chắn là chư Phật sẽ nhìn thấy những Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo, học, giữ trong trí, chuyên tâm tu luyện, nhắc đến, lặp lại, hay đơn giản là chỉ viết ra, và cũng giáo huấn những Bồ Tát khác, chỉ dạy và khuyến khích họ
Ông có thể biết rằng những người như vầy đã gieo trồng và sẽ tiếp tục gieo trồng thiện căn ở trong hay vượt lên trên những giới hạn được biết đến, hay bất cứ giới hạn nào được thành lập...và người này làm như vậy và nhìn nhận như vậy khi nghĩ đến Phật. Những người này không chỉ ở nơi Thanh Văn hay Duyên Giác gieo trồng thiện căn để rèn luyện chính mình và người khác nơi Trí tuệ hoàn hảo, nhưng, không nghi ngờ gì nữa, những Bồ Tát này rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo và không sợ hãi, tiếp tục gieo trồng thiện căn nơi các Đức Phật
Bất cứ sự tiếp nhận nào với Trí tuệ hoàn hảo này, giữ trong trí, học, nhắc đến, lặp lại và viết chép, theo đuổi- theo nghĩa, nội dung và cách thức- ta biết rằng chắc chắn những người này đã được gặp mặt đối mặt với các Đức Phật. Vì Bồ Tát không xỉ vả Trí tuệ hoàn hảo này, không chống đối, chối từ hay từ bỏ Trí tuệ hoàn hảo này, chúng ta biết những người này hoàn thành thiện ý như được chỉ ra dưới Jinas, các Đức Phật trong quá khứ
Khi Bồ Tát không đi ngược lại lời nguyện muốn tiết lộ và đã tiết lộ, để nhận biết và đem lại sự nhận biết của Bodhi, người này không đam mê (đem cho? –give over) những căn lành mà mình đã gieo trồng nơi có Phật xuất hiện để thành Thanh Văn hay Duyên Giác như là phần thưởng của mình. Theo như luật lệ, như là nguyên lý không thể hoại diệt có được từ sự phụ thuộc lẫn nhau của bất cứ và tất cả các pháp, Bồ Tát như vậy thì biết ơn và luyện tập không ngừng trong Trí tuệ hoàn hảo này, ngay cả vượt trên hình tướng, cảm xúc, nhìn nhận, phản xạ tự nhiên (impulse), hay ý thức (các uẩn) của những pháp như vậy. Chúng ta biết được điều này, chắc chắn là vậy. Tính tự phát của Sự-thể-như-vậy đã tiết lộ sự nhận thức không thể suy nghĩ, không nằm trong thời gian, sinh ra từ sự nhận biết thuần khiết...giống như không gian
Sự truyền Kinh cho Anan
Thế nên, bây giờ và tại đây, Anan, ta lại một lần nữa giao phó cho ông và gửi gắm nơi ông Trí tuệ hoàn hảo này, được viết bằng chữ, thế nên sẽ dễ học, giữ trong trí, thảo luận, nghiên cứu và lưu truyền rộng rãi, để Trí tuệ hoàn hảo được tồn tại lâu dài, không mau chóng ẩn mất. Nếu, Anan, ông quên hết tất cả các pháp mà ông học được trực tiếp từ ta- ngoại trừ Trí tuệ hoàn hảo này- nếu ông vất đi tất cả, và để chúng bị quên lãng thì đây chỉ là một việc làm sai trái nhỏ đối với các Phật
Nhưng nếu ông quên đi, vất bỏ và để cho quên lãng ngay chỉ một câu trong Trí tuệ hoàn hảo này, hay chỉ một phần của một câu thì đây là tội, sự xúc phạm (offence) tới các Phật, và điều này sẽ làm Ta bất mãn. Và khi ông học Trí tuệ hoàn hảo này, và lại quên đi, bỏ mất, để cho quên lãng, thì ông đã thất bại trong việc tôn kính, thờ phụng các Phật trong tất cả quá khứ, vị lai, hiện tại. Tại đây và bây giờ, Anan, hãy nhớ là đó là một tội nặng với Phật nếu như ông, mặc dù học Trí tuệ hoàn hảo này mà lại quên mất, vất bỏ hay để cho quên lãng thì điều này làm Ta bất mãn. Vì Phật nói “Trí tuệ hoàn hảo này là mẹ, là nguồn gốc không nguồn gốc, là bản sơ của các Phật quá khứ, vị lai và hiện tại, là thầy thuốc cho sự toàn giác”. Tại đây và ngay bây giờ, Anan, Ta giao phó và gửi gắm cho ông Trí tuệ hoàn hảo này, vì vậy đừng để bị ẩn mất
Trí tuệ hoàn hảo này được học, giữ trong trí, nghiên cứu, tụng, viết chép và phát triển. Hãy để tâm và phục vụ tốt, và cũng lưu truyền cho nhiều nơi. Và khi người này học như vậy, người này sẽ cẩn thận nghiên cứu văn phạm, từng từ một, từng âm một, từng chữ một. Chính pháp (viết bằng chữ) này là chủ quyền của pháp-thân của Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Cũng như bây giờ Anan đối xử như vầy với ta, khi ta đang là Phật- sự cô độc (with “solitude”? Hay là “solicitude”- sự lo lắng?), sự yêu thương và tôn trọng- cũng với tinh thần đoan chính, đức hạnh này, ông cũng nên học hỏi Trí tuệ hoàn hảo này, giữ trong trí, nghiên cứu, lặp lại, viết chép và phát triển, tôn kính, tôn trọng và thờ phụng pháp này. Đây chính là để ông tôn thờ, đây cũng là cách để ông bày tỏ thiện chí, biểu lộ lòng tôn trọng, và niềm tinh trong sáng đối với các Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại
Như Ta, Phật Thế Tôn, thì thân mến và và vui lòng (dear and pleasant) đối với ông, Anan, và ông không rời bỏ Ta, thì hiện tại và ở đây Trí tuệ hoàn hảo này cũng sẽ thân mến và vui lòng đối với ông, và ông cũng không nên bỏ Trí tuệ hoàn hảo, không nên quên mất dù chỉ là một từ của Trí tuệ hoàn hảo, để Trí tuệ hoàn hảo không ẩn mất. Ta đã nói lâu với ông về sự ban tặng Trí tuệ hoàn hảo, trong 1 kalpa (kiếp?), hay thời gian còn lại của 1 kalpa, hay 100 kalpa cho đến trăm ngàn ức triệu kalpa, hay hơn nữa. Nhưng nói tóm lại, cũng giống như Ta là thầy của ông, và Trí tuệ hoàn hảo này cũng vậy. Cũng giống như chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại là thầy của thế giới với các chư thiên, người và A tu la, thì Trí tuệ hoàn hảo này cũng vậy
Tại đây và trong lúc này, Anan, Ta giao phó và truyền lại cho ông sự ban tặng vô biên (measureless) này, chính là Trí tuệ hoàn hảo, vốn là vượt trên mọi sự đo lường của hạnh phúc và lợi ích cho thế giới với các chư thiên, nhân loại và A tu la. Chính vì người này không muốn từ bỏ Tam bảo, Phật, Pháp và Tăng, và người này cũng không muốn bỏ mất Bodhi của các Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại, thì người này cũng không bỏ đi Trí tuệ hoàn hảo này! Và đây là một điều dặn nữa- khi những người học, giữ trong trí, nghiên cứu Trí tuệ hoàn hảo, tụng và biên chép thì chính là tham gia và giúp đỡ cho Bodhi của Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Vì bất cứ ai giúp đỡ cho Trí tuệ hoàn hảo, như khi Trí tuệ hoàn hảo được nghĩ là đang ẩn mất đi (crumble away) hay có vẻ là như vậy thì người này giúp đỡ cho sự đạt được Bodhi của Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Phật biết được Bodhi là nhờ có Trí tuệ hoàn hảo này. Và điều này cũng đúng với các chư Như Lai (Tathagata) trong quá khứ, vị lai hay hiện tại.
Lúc này và tại đây, Bồ Tát khát vọng muốn biết được Bodhi và rèn luyện trong 6 ba la mật thì lắng nghe Trí tuệ hoàn hảo này, học, tụng và viết chép, và người này rèn luyện trong chính Trí tuệ hoàn hảo này, và nỗ lực xung quanh Trí tuệ hoàn hảo (around), về Trí tuệ hoàn hảo (about) và bên trong Trí tuệ hoàn hảo. Trí tuệ hoàn hảo này chính là mẹ, là nguồn không phải nguồn (sourceless source) của bản sơ của Bồ Tát. Chính nhờ Trí tuệ hoàn hảo này mà bất cứ Bồ Tát nào rèn luyện trong 6 ba la mật, và ở bất cứ thời gian nào tiến tới Bodhi. Chính nhờ Trí tuệ hoàn hảo này mà Bồ Tát tiến lên 6 ba la mật, vì tất cả các ba la mật này nuôi dưỡng  điều làm tan rã các cấu bẩn và phiền não, và cũng chỉ ra và tiết lộ Bodhi, vì những điều này (Bodhi) được chỉ ra và tiết lộ qua chính Trí tuệ hoàn hảo này.
Tại đây và bây giờ, Anan, ta nhắc lại lần thứ 2, thứ 3, Ta giao phó và truyền lại cho ông Trí tuệ hoàn hảo, để Trí tuệ hoàn hảo không bị ẩn mất. Vì chính Trí tuệ hoàn hảo này là cho vô tận của các pháp của chư Như Lai. Tất cả những pháp mà chư Phật đã nói cho chúng sinh trong quá khứ, ở những thế giới của sinh tử không có khởi đầu và kết thúc, tất cả đều được chỉ ra và tiết lộ từ kho tàng pháp này, từ chính Trí tuệ hoàn hảo này. Cũng như vậy, các pháp mà chư Phật đã diễn nói cho chúng sinh để họ biết được Bodhi trong tương lai, cho tất cả những ai có quan điểm, sự nhìn nhận sữ dẫn họ vượt trên, thoát khỏi vô số thế giới của sinh tử, cũng được tiết lộ và chỉ ra từ chính kho tàng pháp này, chính là Trí tuệ hoàn hảo này. Và chư Phật trụ trong vô số thế giới hệ, và cũng đang diễn thuyết pháp, các vị lấy được sự tiết lộ này từ chính kho tàng pháp Trí tuệ hoàn hảo này. Tại đây và bây giờ, kho tàng của pháp, Trí tuệ hoàn hảo này thì là vô tận, và luôn là như vậy.
Anan, cũng giống như nếu ông thuyết pháp cấp độ Thanh Văn cho những người đi theo Thanh Văn thừa, và nhờ ông diễn pháp như vậy mà tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới chứng được quả vị A la hán, ông vẫn chưa hoàn thành bổn phận như là đệ tử của Ta, giống như ông tiếp tục chuyển pháp luân và diễn thuyết pháp. Mặc khác, nếu ông chỉ diễn giảng 1 câu của pháp liên quan đến Trí tuệ hoàn hảo này cho 1 Bồ Tát thì Ta sẽ rất hài lòng đối với ông, như là đệ tử của ta, ông đã chuyển pháp luân và giảng pháp. Khi ông suy xét về việc giảng pháp mà nhờ đó chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới chứng được A la hán, và những vị A la hán này thực hành công đức bố thí, đức hạnh, thiền định tiếp tục như vậy, thế thì cộng lại có nhiều công đức chăng?
Anan: Đúng là thế, thưa Ngài
Phật: Người đã nguyện đi trên Thanh Văn thừa thì có được công đức khác biệt và không thể đo lường khi người này diễn thuyết pháp liên quan đến Trí tuệ hoàn hảo  cho Bồ Tát. Công đức này cũng sẽ rất khác nếu như Bồ Tát diễn thuyết cho một Bồ Tát khác pháp liên quan đến Trí tuệ hoàn hảo- dù chỉ là trong 1 ngày, hay một buổi sáng, một giờ, nửa giờ, một phút hay một giây, một khoảnh khắc cho đến một thời gian nhỏ nhất của thời khắc. Vì món quà pháp này của Bồ Tát thì khác hẳn với tất cả thiện căn của tất cả những ai nguyện đi theo Thanh Văn hay Duyên Giác thừa. Bồ Tát có được thiện căn như vầy, lại nghĩ đến thiện căn này thì không thể nào thoái chuyển Bodhi. Thật không thể.
Cõi Phật Akshobhya
Lúc này, Phật sử dụng năng lực của mình. Tất cả đại hội bao gồm Tăng, ni, nam nữ tại gia, cùng với chư Thiên, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la gia, người và ma, tất cả, nhờ thần lực của Phật mà thấy được Đức Phật Akshobhya xung quanh là các tăng và đoàn Bồ Tát đang diễn nói pháp, đại hội rộng lớn như biển cả, sâu thẳm và bình lặng, được bao quanh bởi các Bồ Tát có những thuộc tính không thể nghĩ được (unthinkable), với tất cả A la hán các lậu đã hết, vô cấu, hoàn toàn kiểm soát được, tự tại trong tâm, đã giải thoát và thông thái, đầy dũng khí, những việc cần làm đã làm xong, những gánh nặng đã được trút bỏ, những hạnh phúc cũng đã đạt đến được, ràng buộc đã dứt, tâm thư thái nhờ có suy nghĩ đúng đắn, hoàn toàn tự kiểm soát được tâm
Lúc này Phật thu hồi lại năng lực của mình. Và Phật Akshobhya không còn hiện nữa, cùng với tất cả Bồ Tát và Thanh Văn, và cõi Phật không còn nằm trong tầm nhìn của hội chúng. Vì Phật đã thu lại năng lực của mình. Phật lại nói với Anan: Anan, cũng giống như vậy, tất cả các pháp không nằm trong tầm nhìn. Pháp cũng không nằm  trong tầm nhìn của pháp, pháp không thể thấy pháp, pháp không thể biết pháp. Pháp có bản tính là không thể được thấy hay biết, và không có khả năng làm điều gì. Tất cả các pháp đều thiếu sự hoạt động, không thể được nắm bắt, và cũng không hoạt động giống như không gian vậy. Tất cả các pháp thì không thể nghĩ được, cũng giống như người huyễn hóa. Tất cả các pháp thì không thể tìm thấy được, vì chúng ở trong trạng thái không tồn tại. Khi người này đi như vậy, Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo và không trụ tại pháp nào. Khi người này đi như vậy, Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo. Khi Bồ Tát muốn tiết lộ và nhận biết được Bodhi, vốn là sự hoàn hảo của tất cả các sự rèn luyện, người này chính đang rèn luyện và hoàn thiện Trí tuệ.
Vì sự rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo là tiên hết, là tốt nhất, chọn lọc nhất, xuất sắc nhất, cao siêu nhất, cao nhất, tối thượng, không gì bằng, không thể so sánh, điều này đem lại lợi ích và niềm vui cho cả thế giới, được mệnh danh là người bảo vệ cho kẻ thế cô, được chỉ dạy và được ca ngợi bởi Phật. Các Phật, nhờ rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo này, trụ tại đây mà có thể nhấc cả đại thiên thế giới này bằng ngón chân cái, và lại đặt thế giới vào chỗ cũ. Và Phật không nghĩ là “Đại thiên thế giới này vừa được nhấc lên, và lại được thả xuống”, vì Trí tuệ hoàn hảo có được những giá trị vô biên không thể tính toán. Chính nhờ rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo mà các Phật đạt được trạng thái không gắn kết ràng buộc với pháp quá khứ, vị lai và hiện tại. Trong tất cả các sự rèn luyện trong quá khứ, vị lai và hiện tại thì sự rèn luyện trong Trí tuệ hoàn hảo là tiên hết, là tốt nhất, chọn lọc nhất, xuất sắc nhất, cao siêu nhất, cao nhất, tối thượng, không gì bằng, không thể so sánh
Sự tận diệt, không tận diệt (non extinction) và Trí tuệ hoàn hảo
Trí tuệ hoàn hảo thì không có giới hạn, không bao giờ cạn kiệt và vô biên, vì những giới hạn, sự cạn kiệt và biên giới thì không có trong Trí tuệ hoàn hảo. Nếu lại gán giới hạn, sự cạn kiệt và biên giới cho Trí tuệ hoàn hảo thì giống như gán những pháp này vào cho không gian. Vì Trí tuệ hoàn hảo thì không có giới hạn, không bao giờ cạn kiệt và vô biên, Ta không dạy rằng Trí tuệ hoàn hảo có những giới hạn, sự cạn kiệt và biên giới.  Cũng như vậy, tổng hợp những từ có trong Kinh này thì không phải là đồng nhất với sụ hoàn hảo, sự đang hoàn thiện hay là Trí tuệ hoàn hảo. Trí tuệ hoàn hảo, mặc dù được gọi là như vậy, nhưng không lệ thuộc vào những giới hạn vật lý, ngôn từ hay tâm thức (mental), Trí tuệ hoàn hảo thì không có bất cứ giới hạn nào
Anan: Vì lý do gì mà Phật lại không dạy bất cứ giới hạn nào đối với Trí tuệ hoàn hảo?
Phật: Chính vì Trí tuệ hoàn hảo thì không thể cạn kiệt và lại tách biệt. Cũng như không ai có thể nắm bắt được sự tách biệt của bất cứ pháp tách biệt nào, huống gì có thể nào nắm bắt được chu vi có giới hạn của Trí tuệ hoàn hảo? Chính vì vậy, Trí tuệ hoàn hảo này thì vượt trên tất cả sự đo lường, không bị giới hạn, không có bất kỳ giới hạn nào. Phật trong suốt và vượt trên tất cả thời gian lấy sức mạnh từ Trí tuệ hoàn hảo này, và tuy vậy, Trí tuệ hoàn hảo vẫn không bị cạn kiệt, cũng không bị tận diệt. Điều này cũng đúng khi nói các Phật trong tương lai lấy sức mạnh từ Trí tuệ hoàn hảo này, và tuy vậy, Trí tuệ hoàn hảo vẫn không bị cạn kiệt, cũng không bị tận diệt. Các Phật hiện đang ở trong vô số thế giới hệ cũng lấy sức mạnh từ Trí tuệ hoàn hảo này, và tuy vậy, Trí tuệ hoàn hảo vẫn không bị cạn kiệt, cũng không bị tận diệt. Chính ta, Như Lai cũng lấy sức mạnh (của mình) từ Trí tuệ hoàn hảo này, và tuy vậy, Trí tuệ hoàn hảo vẫn không bị cạn kiệt, cũng không bị tận diệt. Cũng như không ai có thể làm cạn kiệt không gian, không ai có thể làm cạn kiệt Trí tuệ hoàn hảo. Chính vì thế, Trí tuệ hoàn hảo này thì không thể bị cạn kiệt
Lúc này, Ngài Subhuti nghĩ: cấp bậc (station) mà Phật dạy thì không thể nghĩ bàn. Bây giờ ta sẽ hỏi Phật về cấp bậc này. Và ngài Subhuti hỏi Phật: Trí tuệ hoàn hảo thì, thưa Ngài, không bị cạn kiệt như thế nào?
Phật: Tức không thể bị tuyệt chủng (tận diệt?), cũng giống như không gian không thể bị tàn lụi, cũng giống như tất cả các pháp thì vô sinh, điều này cũng không thể bị cạn kiệt
Subhuti: Vậy làm sao mà Bồ Tát hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo này?
Phật: Nhờ qua sự không tận diệt của hình tướng, xúc, nhận định, phản xạ, ý thức. Qua sự không tận diệt của vô minh (ignorance), tác tạo nghiệp, của tên gọi và hình tướng, của trường (field) 6 giác quan, của tiếp xúc, ham cầu, tham đắm (grasping) và sự ràng buộc, của sự hình thành, sinh, mục (lão?), tử, đau buồn, than khóc, đau đớn, tuyệt vọng. Nhờ phương cách này mà Bồ Tát quan sát sự đồng sản sinh (coproduction) có điều kiện để mà từ bỏ hai thái cực. Người này quán sát như là không thấy ở đâu có sự bắt đầu, kết thúc hay ở giữa. Thấy được sự cùng sản sinh có điều kiện (To survey coproduction), người này có được sự biết toàn giác. Ở đây là sự không chấp nhận (non-acceptance), và vì vậy, không từ bỏ, không ràng buộc gắn kết, và vì vậy, không tách biệt, rời bỏ (non-detachment)
Vì Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo nhờ có sự hoàn thiện của sự không diệt tận, và quan sát sự cùng sản sinh có điều kiện thì không thể trụ tại cấp độ Thanh Văn hay Duyên Giác mà trụ tại sự toàn giác. Có một số Bồ Tát thoái chuyển Bodhi vì không lui tới những hoạt động suy nghĩ (tiến đến sự hoàn thiện của sự không diệt tận) và phương tiện thiện xảo, người này không biết Bồ Tát làm cách nào mà đi trên Trí tuệ hoàn hảo hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo nhờ sự hoàn thiện của sự không diệt tận, và cũng không biết bằng cách nào mà sự cùng sinh có điều kiện này được quán sát (surveyed) ở nơi Trí tuệ hoàn hảo này nhờ vào sự hoàn thiện của sự không diệt tận
Những Bồ Tát nào thoái chuyển Bodhi là do họ không lui tới phương tiện thiện xảo. Bồ Tát trong bất cứ thì gian nào không thoái chuyển Bodhi là do Trí tuệ hoàn hảo. Theo cách này, Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo nhờ hoàn thiện được sự không diệt tận. Bồ Tát quan sát sự cùng sinh có điều kiện thì không thấy có pháp nào được sinh ra mà không có nguyên do, và cũng không quan sát thấy bất cứ pháp nào như là trường tồn (thường còn), ổn định, vĩnh hằng, không bị thoái chuyển (reversal), và cũng không thấy bất cứ pháp nào như là người hành động hay là người cảm giác (doer or feeler)
Đây chính là cách nhìn nhận về sự cùng sinh có điều kiện mà Bồ Tát hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo nhờ sự hoàn thiện của việc không tận diệt , và đi trên Trí tuệ hoàn hảo, thấy được. Khi Bồ Tát, nhờ hoàn thiện được Trí tuệ hoàn hảo qua việc hoàn thiện (consummate) sự không diệt tận, thấy được sự cùng sinh có điều kiện, thì lúc này người này không quan sát thấy hình tướng là một thực thể riêng biệt, có thực, và cũng vậy đối với các uẩn còn lại; cũng như vậy đối với vô minh, sự tạo tác nghiệp, vv cho đến sự mục nát và sự chết, đau buồn, than khóc, đau đớn, tuyệt vọng, và cũng không thấy sự thực là “đây là cõi Phật của tôi”, như là có thực, hay là “kia là 1cõi Phật nữa”. Và người cũng không thấy các pháp (mà nhờ đó 1 người có thể phân biệt được cõi Phật này hay cõi Phật kia) như là thực (real). Subhuti, đây chính là Trí tuệ hoàn hảo của Bồ Tát, vĩ nhân.    
Những lợi ích có được từ Trí tuệ hoàn hảo
Khi Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì ta nghĩ rằng ác Ma cảm thấy như bị trúng mũi tên sầu thảm, y như là một người vừa mới mất cha hay mẹ vậy
Subhuti: Vậy nỗi đau này chỉ ảnh hưởng tới 1 Ma thôi hay là ảnh hưởng tới nhiều Ma, cho đến tất cả Ma trong đại thiên thế giới?
Phật: Khi Bồ Tát trụ trong Trí tuệ hoàn hảo thì tất cả các Ma trong đại thiên thế giới đều cảm thấy như bị trúng mũi tên sầu thảm, và chúng không thể ngồi yên trên ngai vàng được. Vì tất cả thế giới với chư Thiên, nhân loại và A tu la, không ai có thể thâm nhập được vào Bồ Tát trụ tại Trí tuệ hoàn hảo, và họ không có chỗ để mà nắm giữ, đoạt lấy (take posession of), làm hại hay khiến người này thoái chuyển Bodhi. Thế nên bây giờ, Subhuti, Bồ Tát khát vọng muốn nhận biết và tiết lộ Bodhi cho chính mình và người khác như là đã ở trong vị trí, an trụ (as already in place), thì đi trên Trí tuệ hoàn hảo.
Ở Bồ Tát trụ trong Trí tuệ hoàn hảo thì Bố Thí ba la mật đã đạt đến sự phát triển hoàn thiện nhaart, và cũng vậy đối với các ba la mật khác như đạo hạnh (trì giới?), nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. Ở người như vậy thì các ba la mật này đã tiến đến sự phát triển hoàn hảo nhất, và cũng vậy đối với các loại phương tiện thiện xảo. Những gì được nghĩ như là , hay xem như là hành động của ma, khởi lên chống lại người đi trên Trí tuệ hoàn hảo thì người này tự nhiên nhận biết là những việc này đang xảy ra, và họ lại loại bỏ chúng.
Bồ Tát muốn có được nhiều phương tiện thiện xảo thì đi trong Trí tuệ hoàn hảo, và phát triển như vậy. Ở bất cứ lúc nào Bồ Tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo và không ngừng ước muốn đạt được Trí tuệ hoàn hảo, người này nghĩ đến (bring to mind) không chỉ các Phật ở trong vô số thế giới hệ, mà còn cả sự toàn giác đến từ Trí tuệ hoàn hảo
Người này lúc này nghĩ như vầy: Tôi cũng muốn đạt tới được pháp (dharma) mà các Phật đã đạt được!”. Chỉ trong 1 ngày, hay trong khoảng thời gian bằng cái búng tay, Bồ Tát trụ trong Trí tuệ hoàn hảo nghĩ như vậy và ước muốn như vậy. Nhưng Bồ tát trong 1 ngày, hay trong khoảng thời gian bằng cái búng tay ước muốn có được Trí tuệ hoàn hảo này thì có được công đức khác, và thực sự là nhận được luồng gió (winds) khác hẳn với Bồ Tát dựa vào 1 cơ sở, và lại bố thí trong vô số kiếp. Bồ Tát như vậy trụ tại sự không thoái chuyển khi luồng gió của người này đưa người này qua đến sự tiết lộ của (về) sự không tận diệt, và không có gì như vậy trở thành diệt tận, không chịu ảnh hưởng thời gian, vĩnh cửu, và sự nhận thức này sinh từ (borne through) bất cứ và tất cả mọi giới hạn của hiện thực, ngay cả cho đến pháp thân (dharmakaya) như là sự nhận biết thuần khiết và không bị phân biệt, giống như không gian.
Người như vầy nói về điều này như là chỉ lâu bằng cái búng tay, vì điều này không có sự bắt đầu và trong sự vô thời gian thì vượt trên mọi khoảnh khắc thời gian. Bồ tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo và trong 1 ngày, hay trong thời gian bằng cái búng tay, suy nghĩ như vầy thì ta biết người này được các Phật nghĩ đến. Không cần phải nói đến người mỗi ngày suy nghĩ như vậy. Vậy Bồ Tát được Phật nghĩ tới thì tương lai sẽ là thế nào? Chắc chắn là không gì khác ngoài Bodhi. Người như vầy sẽ không sinh vào những nơi khổ. Ta có thể biết người này sẽ sanh thiên, và ngay khi ở đây người này cũng không xa cách các Phật, và ở đây người này làm trưởng thành chúng sinh (mature beings). Đây chính là lợi ích và giá trị của Bồ tát đi trên Trí tuệ hoàn hảo, và phát tâm như vậy, cho dù chỉ là một cái búng tay. Không cần phải nói tới người suy nghĩ như vậy mỗi ngày, ví dụ như Bồ Tát Gandhahastin, người sống thánh thiện nơi Đức Phật Akshobhya
Chương XXIX
Sự tiến đến
Hơn thế nữa, Subhuti, Bồ Tát tiến đến Trí tuệ hoàn hảo như sau: Qua sự không gắn kết và ràng buộc đối với bất cứ và tất cả các pháp. Từ sự không phân biệt của các pháp. Từ sự thực là các pháp không xảy ra. Và tin tưởng rằng “bất cứ và tất cả các pháp đều ngang nhau, giống nhau ở sự không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi”. Người này nhận biết nhờ trí tuệ bẩm sinh như Phật tính thuần khiết, tất cả các pháp thì không có tự thể (self), không gợi ý (về bản chất và dự định thật của pháp)
Ở sự tin tưởng rằng “bất cứ và tất cả những điều gì ta nói về pháp (nằm ngoài pháp), chỉ là ngôn từ, chỉ là cách diễn đạt thông thường- nhưng những cách diễn đạt này không nhắc đến những gì thực tế, và những cách diễn đạt này cũng không phải là cái gì đó thực. Ở sự tin tưởng (conviction) rằng “bất cứ và tất cả các pháp nằm ngoài sự diễn đạt và sự bàn luận, và những gì được nói đến hay diễn đạt thì không phải là pháp (it is not these which are expressed). Bồ Tát tiến tới Trí tuệ hoàn hảo nhờ từ sự vô tận của bất cứ và tất cả các pháp. Nhờ thâm nhập vào bất cứ và tất cả các pháp. Từ sự thật rằng bất cứ và tất cả các pháp thì hoàn toàn thuần khiết theo bản tính gốc của nó. Từ sự thật là bất cứ và tất cả các pháp thì vượt trên ngôn từ
Ngay cả những loại khác nhau của sự từ bỏ cũng ngang bằng nhau, vì bất cứ và tất cả các pháp thì không thể bị dừng lại. Sự thể như vậy thì ở bất cứ đâu cũng là sự giống nhau (sameness), vì bất cứ và tất cả các pháp thì đều nhận thức Nirvana. Ở sự tin tưởng rằng ”bất cứ và tất cả các pháp không đến, không đi; không thể được tạo ra, là vô sinh, vì sự vô sinh ra này là tuyệt đối”. Người như vầy không nhìn nhận, nhận định chính mình hay người khác. Tin tưởng như vầy “bất cứ và tất cả các pháp đều là A la hán, hoàn thoàn thuần khiết trong bản tính gốc của nó”. Và tin tưởng rằng “bất cứ và tất cả các pháp đặt xuống gánh nặng này, vì ban đầu không có gánh nặng nào mà pháp từng gánh lấy”. Người này tiến tới Trí tuệ hoàn hảo từ sự thật rằng bất cứ và tất cả các pháp thì không có nơi chốn hay vị trí xảy ra.
Vì hình tướng, cảm xúc, nhìn nhận, phản xạ, và ý thức thì không có nơi chốn (place) và vị trí, theo đúng như sự tồn tại của bản tính gốc, vốn là không có sự tồn tại. Người này vui mừng bởi sự dừng lại (cessation) của bất cứ và tất cả các pháp. Người này không cảm thấy hài lòng hay không hài lòng. Người này cũng không bị kích động, cũng không thản nhiên. Vì 5 uẩn, ở bản tính thật của chúng, ở sự tồn tại của chúng thì không bị kích động, cũng không thản nhiên. Tin tưởng là “bản tính gốc (của các pháp) thì thuần khiết hoàn toàn. Tin tưởng là “tất cả các pháp thì không ràng buộc, tự do không bị ràng buộc và cả sự không ràng buộc”. Tin tưởng là “bất cứ và tất cả các pháp thì đều là Bodhi, vì như chúng được hiểu ngang bằng nhau bởi Phật-trí (equally understood)
Từ sự vắng lặng, vô dấu hiệu và không ước muốn của tất cả các pháp. Trong sự nhận biết rằng “bất cứ và tất cả các pháp đều là liều thuốc chữa bệnh, như được quản lý, khống chế bởi sự thân thiện và đồng tình (accord)”. Theo sự tin tưởng rằng “tất cả các pháp trụ tại sự thân thiện, trong từ bi, trong niềm vui đồng cảm, trong sự công bằng”. Và tin tưởng rằng “tất cả các pháp được nhận biết qua tinh thần chung (phổ quát) và tối thượng này, rằng không có sai lầm nào khởi lên, vì trong sự tồn tại thiết yếu, cốt lõi (in essential being), tất cả sự sai lầm đều không được sản sinh”. Trong sự tin tưởng rằng “tất cả các pháp đều không hứa hẹn, hy vọng, cũng như không thù địch”
Người này tiến đến sự vô biên của Trí tuệ hoàn hảo giống như là tiến đến với sự vô biên của biển cả; như là sự nhiều màu sắc của núi Tu di. Người này tiến tới sự vô biên của Trí tuệ hoàn hảo: từ sự vô biên của hình tướng, cảm xúc, nhìn nhận, phản xạ, ý thức; từ sự vô biên vô số tia sắc chiếu từ mặt trời; từ sự vô biên của không gian; từ sự vô biên của những thành tựu (achievement) sau cùng của bất cứ và tất cả các pháp của Phật; từ sự vô biên của việc trang bị cho vô số chúng sinh ở bất cứ thế giới nào công đức và trí biết (cognition); từ sự vô biên của nguyên tố đất; và cũng như vậy đối với nguyên tố nước, lửa, gió, không gian và ý thức
Người này tiến đến sự không giới hạn của Trí tuệ hoàn hảo từ sự không giới hạn của tất cả các pháp tốt và không tốt (unwholesome), từ sự không giới hạn của tất cả các pháp
Người này tiến đến sự vô tận của Trí tuệ hoàn hảo từ sự đạt được sự vô tận của thiền định về tất cả các pháp, từ sự vô tận của tất cả các Phật pháp, từ sự vô tận của tất cả các pháp, từ sự vô tận của sự vắng lặng, từ sự vô tận của suy nghĩ và các bộ phận (constituent), từ sự vô tận của suy nghĩ và hành động
Người này tiến đến vô lượng của Trí tuệ hoàn hảo từ sự vô lượng của tất cả các pháp tốt và không tốt. Người này tiến tới được sự tuyên bố dứt khoát của Trí tuệ hoàn hảo qua (giống như) sự hống của sư tử hống 
Người này tiến đến nhận biết rằng Trí tuệ hoàn hảo thì không thể bị lay động bởi các nhân tố bên ngoài dựa từ sự thật rằng bất cứ và tất cả các pháp không thể bị lay động bởi các nguyên tố bên ngoài. Vì các uẩn thì như biển cả. Các uẩn thì như vòm trời, như sự sáng chói và muôn màu của núi Tu di; như sự sản sinh ánh sáng từ đĩa mặt trời; không bị giới hạn như âm thanh; như toàn thể thế giới với các chúng sinh; vô tận như sự hoàn thiện (achievement) cuối cùng của pháp của một Phật; vô biên như sự trang bị công đức và trí tuệ nhận biết cho tất cả chúng sinh trong mọi thế giới; như là mặt đất, như nước, lửa, khí, không gian và ý thức (consciousness); nó không có bất cứ giới hạn cụ thể nào như (like) sự tập hợp của tất cả các pháp tốt và không tốt; nó không có giới hạn giống như sự tập hợp của tất cả các pháp. Hình tướng là ra đi (tới Phật vị), sự tự thể (own being) của hình tướng là Phật-pháp, vốn cốt lõi là Sự thể như vậy của hình tướng, vv cho đến ý thức là sự rời đi, tự thể tồn tại của ý thức là Phật-pháp, vốn cốt lõi là Sự thể như vậy của ý thức
Hình tướng, cũng như mỗi một uẩn thì vô tận của bản chất thật của bất cứ và tất cả các pháp; Sự thể như vậy thì vắng lặng, vô tận bản chất thật (của sự việc); sự vô tận của suy nghĩ và các thành phần cấu tạo nên; và chỉ có vẻ như khơi dậy suy nghĩ và hành động, và (có vẻ như) được xem (nắm bắt) như là tốt (lành mạnh) hay là không tốt cho đến khi ta không còn nắm bắt nữa (Suchness as empty, boundless true nature [of things]; boundlessness of thought and constituents; which merely appears to give rise to thought and action; which is apprehended as wholesome or unwholesome until non-apprehension). Đây chính như sư tử hống, và không thể được lay chuyển bởi yếu tố bên ngoài

Theo cách này, Bồ tát tiến tới Trí tuệ hoàn hảo. Khi Bồ Tát tiến tới Trí tuệ hoàn hảo theo cách này, nhận thấy nó, thâm nhập vào nó, hiểu được, suy xét, nghiên cứu, tra xét (investigate) và phát triển nó, với hành động của tâm từ bỏ bất cứ và tất cả sự gian dối, giả dối (deception), bất cứ và tất cả ý nghĩ tự cao, sự đề cao bản thân, bất cứ và tất cả sự lười biếng, hạ thấp người khác, ý nghĩ về “tôi” (self), ý nghĩ sự tồn tại, lợi, danh, 5 chướng nạn, ghen tị và nhỏ mọn, bất cứ và tất cả sự dao động- điều này không khó cho người đạt được sự hoàn hảo của tất cả các đức tính, (sự hoàn hảo của) cõi Phật và pháp tối thượng của Phật.